Tuesday, October 16, 2012

NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM - Duy An Đông


Duy An Đông
Nói đến người phụ nữ Việt Nam chúng ta nói ngắn gọn đôi nhân vật nữ thời xưa, rồi tới thời nay. Thời xưa, chúng ta có những nữ anh thư đã làm nên lịch sữ như hai bà Trưng, phất cờ ra quân đánh thắng Tô Định rồi xưng Vương. Ngoài ra còn có cô Bắc, cô Giang, có cả Huyền Trân Công Chúa. Lịch sữ cận đại có nữ tướng Bùi Thi Xuân giúp chồng Trần Quang Diệu làm nên chuyện lớn. <!-- Read more -->
Ở thế kỷ hai mươi, vai trò người phụ nữ Việt Nam càng được nhân cao rộng. Liên tưởng đến những thập niên sau Tự Lực Văn Đoàn, người đàn bà Việt Nam thoát ra khỏi  những ràng buộc luân lý cổ xưa - xuất giá tòng phu, tê gia nội trợ, được bung ra xã hội và con đường khởi đầu “nhập thể” chính là học đường. Sau hiệp định Geneve 1954, các thành thị miền Nam nơi nào cũng mở các trường nữ bên cạnh những trường Nam hoặc nam - nữ học chung. Tà áo trắng của các nữ sinh xinh đẹp trên các nẻo đường đến lớp và những lúc tan trường là một bức tranh sống động tuyệt mỹ nơi các đô thị như Sàìgòn, Huế, Đà Nẵng, Hội An,Tam Kỳ, Đà Lạt,  Biên Hoà, Cần Thơ … Những “đàn bướm trắng” đó khi rời ghế nhà trường họ nhập vào dòng chảy xã hội giữ nhiều vai trò then chôt và đóng góp không nhỏ vào công cuộc chung  của đất nước.
Ở độ tuổi “áo trắng sân trường”, là độ tuổi đang trổ nét duyên, biết yêu và đang yêu. Rồi khi rời ghế nhà trường, các cô tốt nghiệp, trở thành những người phụ nữ  đảm nhận những vai trò trong xã hội  theo nghề nghiệp của mỗi người. Rồi các cô tìm được ý trung nhân  trở thành người vợ tốt, người mẹ hiền, người nội tướng đảm đang  trong gia đình.
 Chúng ta thường nghe: “Sự thành công của người đàn ông, luôn bên cạnh có hình bóng của người đàn bà”. Quả thật như vậy, từ những người vợ trong gia đình đến các bậc mệnh phụ phu nhân cho tới những đệ nhất phu nhân xưa nay họ ảnh hưởng không nhỏ vào sự thành công của người chồng.
Lịch sữ Việt Nam thời cận đại nhắc đến một số nhân vật nữ như Nam Phương Hoàng Hậu, người phụ nữ đầu tiên đã cải cách nhiều lề lối cũ kỹ trong hoàng cung, bãi bỏ chế độ cung tầng mĩ nữ, bà cũng có nhiều ý kiến hay đẹp giúp Bảo Đại, ông Vua cuối cùng của triều nhà Nguyễn trong những ngày đất nước rối beng năm 1945 giữa Pháp, Nhật và Việt Minh.
Vào thập niên 50 và những năm đầu 60 thử hỏi có một phụ nữ Việt Nam nào  bản lĩnh hơn bà Trân Lê Xuân, phu nhân ông Ngô Đình Nhu. Người phụ nữ mới ngoài ba mươi  này đã dám dấn thân vào lãnh vực chính trị, phụ giúp chồng và giúp anh chồng “Tổng Thống Ngô ĐÌnh Diệm”lèo lái  công việc xây dựng và bảo vệ chế độ Đệ Nhất Cộng Hoà miền Nam, chống lại công sản miền Bắc.
Thời Đệ Nhất Cộng Hoà, bà Ngô Đình Nhu người phụ nữ nổi bật, xuất sắc trong các hoạt động đoàn thể và xã hội. Bà lập nên đoàn quân”Thanh Nữ Cộng Hoà”, đoàn ngũ hóa “phái yếu”xây dựng hậu phương. Bà đệ trình Quốc Hội luật hôn nhân, một vợ một chồng; từ đó người phụ nữ tương đối được bình đẳng với nam giới, và nếp sống gia đình trở nên nề nếp, tốt đẹp hơn cảnh đa thê trước đó.
Nói về người phụ nữ, chúng ta hồi tưởng những thế hệ nữ giới ở miền Nam, đặc biệt tại các thành thị như Saigòn,Cần Thơ, Huế, Đà Lạt, Đà Nẵng, Hội An,Tam Kỳ và các tỉnh lỵ  từ Quảng Trị đến mũi Cà Mau. Khi còn là nữ sinh ở nhà trường, họ hồn nhiên nhìn cuộc đời như những”con nai vàng ngơ ngác”. Họ có những giấc mơ về tương lai vẽ vời lý tưởng, thật là tuyệt đẹp, họ ao ước sau này có mái ấm gia đình sống bình thường, vợ chồng sống hạnh phúc bên nhau.
Nhưng đất nước trong cảnh chiến tranh, những ước mơ của họ, ít ai được hoàn toàn. Họ chỉ được hưởng hạnh phúc và sống bên nhau không bao lâu thì bao người chồng phải vào quân ngũ.Từ đó, những người phụ nữ, những người vợ ở hậu phương, sống trong cảnh tay ôm con dại, tay xoay xở đủ ngành nghề để nuôi con. Hàng đêm họ cầu nguyện, mong đất nước thái bình, người yêu sẽ giã từ vũ khí trở về vui thú đoàn viên với gia đình. Nhưng, có những người trai ra đi mà không trở về, để lại nôi đau cho người chinh phụ. Thế là từ cô nữ sinh sân trường giờ đã hóa thành người thiếu phụ tiếp tục vất vả nuôi con dại trong nỗi mất mát, cô đơn …
Số khác các đức lang quân may mắn không phơi xác nơi chiến trường, thì sau biến cô 30-4-1975 họ phải vào các trại tập trung cải tạo. Người phụ nữ miền Nam, người vợ lính lại hai vai gánh nặng, nuôi con lẫn nuôi chồng vất vả hơn thời còn chinh chiến. Việc nuôi con đã khó, việc đi thăm nuôi chồng càng khó hơn, các bà vừa phải lo cái ăn cái mặc cho con; vừa phải nhín từng hạt gạo, củ khoai trong mỗi bữa ăn, gom góp dành dụm từng chút lương thực mỗi ngày để thăm nuôi chồng trong tù.
Việc xin giấy phép đi thăm nuôi tù cũng không phải dễ. Đường đi đến trại giam từ mãi rừng sâu núi thẳm lại càng khó khăn hơn. Những bà có”đức lang quân“ cải tao mãi tận miền Bắc, hành trình đi thăm phải mất mấy ngày đường, phương tiện giao thông hạn chế, phải qua mấy lần nằm chờ đợi ở sân ga, xả thân cho muỗi, phải qua mấy lần chờ đợi ở bến đò, đôi chân lội bộ đường trường đã quá mỏi mệt mà cũng ráng sức trèo đèo, băng sông… Và đến nơi chỉ thăm chồng được khoảng vài mươi phút. Chồng vợ nhìn nhau rơi lệ không nói nên lời. Họ chỉ nhìn nhau để thấu hiểu nỗi lòng! Chồng hiểu vợ khó khăn nơi quê nhà, vợ hiểu chồng khổ đau nơi trại tù cải tạo. Sau vài mươi phút phù du, người vợ ra về , người chồng vào phòng giam ở trại, cả hai cùng một suy nghĩ  chung nhất” yêu thương nhiều và thù hận”.
Người vợ lính miền Nam trung kiên tiết liệt, sau 1975 đã thể hiện rõ nét đức tính người phụ nữ”Công Dung Ngôn Hạnh” theo truyền thống luân lý Việt Nam. Trong hoàn cảnh ấy, sự hy sinh của họ quả thật phi thường, đáng trân quí.
Một số các hóa phụ vì thương chồng, thương con, họ tự nguyện không tái giá, mỗi tối họ cầu nguyện xin chông “sống khôn thác thiêng”phò hộ cho họ đủ nghị lực để sống nuôi con thành người, làm rạng danh cho nhà chồng. Trời chẳng phụ lòng người, phần đông những người hóa phụ này đạt được ước nguyện, các con cái họ học hành thành đạt.
Một số khác may mắn người chồng trở về từ nhà tù cải tạo, gia đình đoàn tụ, họ nương nhau tái lập cuộc sống và ổn định mái ấm gia đình rồi cùng nhau theo chương trình H.O xuất ngoại sống bên chồng con  nơi xứ người, đền bù những năm thân cò lặn lội …
Cuộc sống nơi đất khách quê người tinh thần tự do, thoải mái; vật chất đầy đủ, nhưng các bà lại phải lo bươi chải để xây dựng cuộc sống mới thích nghi, nhất là lo cho con cái học hành. Trên thế giới ngày nay nhiều phụ nữ Việt Nam là bác sĩ, kỹ sư, nha sĩ, được sĩ, giáo sư, luật sư, các nhà kinh doanh thành đạt, các phi hành gia, các khoa học gia như Dương Nguyệt Ánh, vưà làm mẹ, vưà làm vợ, vừa là một nhà khoa học, chế tạo bom cho quân đội  Mỹ dùng trong chiến trường Irap. Bà làm việc ở Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ; hay như Thiếu Tá Elizabeth lái phản lực cơ trong quân đội Hoa Kỳ tham chiến ở Irap, và nhiều nhà văn, nhà thơ nữ tiếng tăm ở hãi ngoại. Trong nước nữ giới can đảm đứng lên đòi hỏi tự do nhân quyền có luật sư Lê Thi Công Nhân, Trần Khải Thanh Thủy, Bùi Thi Mạnh Hằng, Huỳnh Thục Vy, Đỗ Thị Minh Hạnh, Trần KimTiến… thật đáng kính nể.
Câu chuyện về nữ giới thực ra rất phong phú và đa dạng. Có nhưng câu chuyện tưởng như là riêng tư của mỗi người nhưng lại thể hiện cả một tấm lòng và phong cách thật đáng trân trọng.
Tôi biết câu chuyện một nữ sinh viên thiết tha với một ý trung nhân học cùng trường, họ thương yêu hứa hẹn và trao đổi bao nhiêu giấc mơ về tương lai tươi sáng. Họ hứa khi ra trường sẽ làm lễ cưới. Nhưng cả hai chưa tốt nghiệp thì chàng trai nhận lệnh động viên nhập ngũ. Họ ôm nhau khóc và rồi hẹn khi nàng ra trường sẽ làm lễ cưới. Oái ăm thay! Nàng chưa ra trường thì chàng bị thương nặng, hai chân đã bị cưa cụt và ngồi xe lăn.
Một lần tôi chứng kiến cảnh nữ sinh viên này đang đẩy chiếc xe lăn đưa người tình chưa cưới đi đây đó. Tôi cảm phục vô hạn cô nữ sinh viên này nói riềng và thương cho người phụ nữ Việt Nam nói chung, họ đã bị chiến tranh gây nên bao cảnh trớ trêu, thua thiệt. Người phụ nữ Việt Nam nói chung, họ gian nan vì loạn lạc, vất vả vì chồng con, bị tập quán xã hội lạc hậu o ép.
Tôi biết cô nữ sinh viên này sau đó giữ đúng lời hứa ban đầu, nguyện sống cùng người  yêu tàn phế cho đến khi tóc bạc răng long. Nàng tiếp tục đến trường học rồi tốt nghiệp ra trường, nuôi chồng theo hẹn hò lý tưởng của mình. Hiện bà ta đang sống với người yêu là anh sĩ quan thương phế binh Trần Văn T. tại Huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Biến cố 30-4-1975, đã xô đẩy hàng trăm ngàn gia đình  vào cảnh ngộ điêu linh tan tác. Hàng trăm ngàn viên chức  VNCH bị luà vào các trại tập trung cải tạo; hàng trăm ngàn người vợ, người phụ nữ Việt Nam phải sống trong cảnh đơn chiếc “thân cò lặn lội”, nuôi dạy con cái, nuôi chồng trong tù cải tạo, chờ đợi năm mười năm; thậm chí mười lăm, mười bảy năm mới có ngày vợ chồng cha con sum họp.
Người phụ nữ “chân yếu tay mềm” trong cảnh ngộ ấy đã chứng tỏ sự đảm đang và lòng trung kiên tiết liệt, nghĩa tình trong một giai đoạn lịch sử đen tối, bi ai của dân tộc.
Những tấm gương ấy xứng đáng ngàn sau ghi  tạc ./-
 
DUY AN ĐÔNG

No comments:

Post a Comment