Dư luận gần đây bàn tán khá nhiều về sự ra đời của học viện Trần Nhân Tông và “giải thưởng hòa giải Trần Nhân Tông”. Nhân dịp này tôi cũng xin mạo muội chia sẻ vài ý kiến.
Đầu tiên,
Trần Nhân Tông Academy ra đời trong hoàn cảnh thế giới chứng kiến và
nhiệt thành hoan nghênh những thành tựu đầu tiên của cuộc hòa giải và
thay đổi chính trị ngoạn mục tại Burma, nên xem như sự ra đời này có thể
là một cách “đánh tiếng” về tương lai chính trị Việt Nam. “Hạ cánh an
toàn” và không bị trừng phạt chính là điều họ muốn người dân dành cho
các vị lãnh đạo Cộng sản của chúng ta chăng?
<!-- Read more -->
Tuy
chẳng dám có xét đoán nào về sở học của các vị giáo sư, tiến sĩ trong
TNT Academy, nhưng xem qua danh sách nhân sự trong tổ chức này tôi chú ý
đến nhiều điểm. Tôi đặc biệt chú tâm đến ông chủ tịch Thomas Patterson-
người đã ca ngợi ông Hồ Chí Minh ngang tầm Wasington: “sự vô tư không
vị kỉ, sự khiêm tốn mà chúng ta tìm thấy ở cuộc đời Hồ Chí Minh hay
George Washington”. Sự so sánh khập khiễng đầy dụng ý này chắc chắn
không phải xuất phát từ một nhà nghiên cứu vô tư- người có nhiều điều
kiện để đạt tri kiến tường minh về sự thật lịch sử hơn phần lớn nhân
loại. Trong TNT Academy còn có một số vị học rộng tài cao thuộc hàng ngũ
trí thức trưởng thành từ chế độ Cộng Sản hoặc thuộc “thành phần thứ ba”
trước năm 1975, cùng các vị trí thức nước ngoài đặc biệt là ở Harvard,
Hoa Kỳ. Các vị thuộc thành phần thứ 3 và các vị ở Harvard không hiểu sao
cứ làm tôi nghĩ tới phong trào phản chiến, phong trào chống VNCH và ủng
hộ Cộng Sản ở Harvard và Hollywood trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam.
Với trình độ tri thức trung bình, một người như tôi, thiển nghĩ, cũng có
quyền đặt nghi vấn về những con người này.
Một
tổ chức cổ vũ hòa giải mà lại không hề có sự tham gia của thành phần
trí thức từng là nạn nhân Cộng Sản. Các vị có thiện chí hòa giải thực sự
hay không, tôi chưa dám bàn đến, nhưng khi muốn hòa giải thì điều tối
thiểu là phải có đầy đủ các bên liên quan. Ví như có một người A đánh
người B bị thương, muốn hòa giải thì trong bàn hòa giải ấy phải có anh A
và anh B, cả những người bên A và bên B; chứ không thể chỉ có anh A và
những người liên quan đến anh, hay những người bàng quan đứng giữa
(thành phần thứ ba) mà thiếu đi sự có mặt của anh B. Chưa nói đến nội
dung hòa giải và khả năng hòa giải, thành phần của “hội đồng hòa giải”
này cũng khiến người ta ngay từ đầu đã không khỏi nghi ngờ.
Thứ hai,
về hình tượng Trần Nhân Tông, theo cách nhìn của cá nhân tôi, Ngài là
một vị vua đáng ngưỡng phục, cả với vai trò người đứng đầu quốc gia và
tư cách một cá nhân bình thường. Với vai trò người lãnh tụ chính trị,
ông đã lãnh đạo cuộc chiến đánh đuổi quân Nguyên thành công, củng cố sự
ổn định của chính sự triều Trần và phát triển quốc gia. Ông còn là người
góp phần mở rộng lãnh thổ nước Đại Việt về phía Nam. Đứng trên lập
trường luân lý công bằng của nhân loại, lấy đất của nước người không thể
gọi là Nhân; nhưng với địa vị của một ông vua nước Việt, ông không
những không đáng trách mà còn là người có công. Trong chính thể quân
chủ, một nguyên thủ quốc gia mà giữ gìn và mở rộng được quyền lợi của
đất nước thì đó đã là một người cai trị thành công. Điều đáng nói ở đây
là có một khả năng không thể tránh khỏi: giá trị tạo nên một nguyên thủ
tốt lại mâu thuẫn quyết liệt với giá trị tạo nên một con người tốt. Bởi
vậy, với vị trí một cá nhân, Trần Nhân Tông đã bỏ việc chính trị phiền
hà để lên núi xuất gia. Điều này cho thấy một sự nhận thức rõ về thân
phận con người trên thế gian và một quyết định dứt khoát chấm dứt mâu
thuẫn giữa một bên là một ông vua bất chấp thủ đoạn và một cá nhân bình
thường, thiện hảo.
Nhìn
vào cuộc đời vị vua này, tôi nhận thấy một diễn tiến mỹ mãn, một kết
thúc có hậu và một lựa chọn đứng trên thiên hạ nhưng điều này không đồng
nghĩa với việc tất cả những gì ông làm đều đúng và đều có thể áp dụng
cho thời đại chúng ta. Tên tuổi Trần Nhân Tông tất nhiên xứng đáng để
đặt cho bất cứ học viện nào, nhưng không phải vì “tinh thần Hòa giải”
theo cách mà chúng ta gán ghép cho ông (sẽ nói ở phần sau), mà vì công
lao thực sự đối với đất nước (như là một vị vua và một nhà văn hóa).
Con
người là luôn sai lầm nên việc ca ngợi ông như một bậc thánh là quá
miễn cưỡng, ấy là chưa nói đến việc “thánh hóa” ông để làm bình phong
che đậy một dụng ý nào đó. Biến ông thành một tấm gương đạo đức cao cả
để định hướng cho một ý đồ của chúng ta là một hành vi lợi dụng lịch sử
trắng trợn. Ông đã là một nhân vật lịch sử, xin đừng sử dụng ông trong
những vấn đề mà thời đại chúng ta phải đối mặt. Cá nhân tôi luôn đề cao
việc sử dụng những giá trị đương đại để giải quyết những vấn đề đương
đại. Việc sùng bái cá nhân, chẳng có tác dụng giải quyết triệt để vấn đề
hôm nay mà còn gây ra những hệ lụy tai hại trong nhận thức của công
chúng. Chúng ta không cần bất cứ tượng đài cá nhân “hậu Hồ Chí Minh” nào
nữa.
Thứ đến,
xin lạm bàn về câu chuyện mà nhà sư Thích Nhất Hạnh kể về vua Trần Nhân
Tông. Chuyện kể rằng, sau khi đánh xong giặc Nguyên, nhà vua đã cho đốt
tất cả các tài liệu bí mật ghi về việc các cận thần của ông đã hợp tác
với quân Nguyên và nói rằng: “Đất nước ta cần sự hòa giải và hàn gắn chứ
không cần sự trừng phạt”. Trước tiên, xin đừng nhìn mọi việc dưới nhãn
quan luân lý dễ dãi. Bởi luân lý là quan trọng nhưng không phải lúc nào
nó cũng là chìa khóa giải quyết vấn đề của nhân loại.
Thời
quân chủ, ông vua chính là luật pháp, là nguyên tắc tối thượng, ông
muốn bắt tội ai thì bắt, tha cho ai thì tha. Một khả năng lớn là: những
người mà nhà vua không trừng phạt và giấu kín cả hành động phản quốc của
họ là hoàng thân quốc thích; cho nên sự ân xá của ông chỉ là để bảo vệ
uy danh của hoàng triều. Quả thật, hành động cá nhân tùy tiện của một
ông vua chính là đặc trưng của chính thể quân chủ chuyên chế. Ở đây,
luật pháp trong tay ông và ý dân có thể là điều ông không cần màng đến.
Dù là một vị vua anh minh, có gì đảm bảo quyết định của ông không cảm
tính, không phù hợp và không vị nể tình riêng?
Trong
thời đại pháp trị này, tất cả mọi người, kể cả một nguyên thủ quốc gia,
đều hành xử trong sự điều chỉnh và chế tài của luật pháp. Một vị nguyên
thủ dù tài năng xuất sắc cũng không thể đưa ra những quyết định tùy
tiện và độc đoán. Một kẻ có tội đáng bị trừng phạt phải do pháp luật
quyết định chứ không phải dựa trên quyết định cá nhân của người cầm
quyền.
Không
biết câu chuyện ấy có thật hay không và được lấy ra từ tài liệu lịch sử
nào, nhưng dẫu nó là thật thì việc này cũng chỉ cho thấy tính chất độc
đoán của quyền lực quân chủ. Tôi viết những dòng này không nhằm đả kích
cá nhân vua Trần Nhân Tông, mà nhằm chỉ ra cái khiếm khuyết tất yếu của
nền chính trị quân chủ. Và từ đó, sẽ thấy thật vô lý nếu lại lấy cái giá
trị khiếm khuyết đó để áp dụng cho thời đại này, dù nhân danh Hòa giải
hay gì đi nữa. Chúng ta không thể lấy cái luân lý cũ, cái nguyên tắc cai
trị cũ ra để áp đặt vào thời đại mới, lấy một câu chuyện mang đầy màu
sắc quân chủ để cổ vũ hòa giải trong thời pháp trị. Nếu làm vậy, thì một
là chúng ta quá vô lý, hai là chúng ta có ý đồ ám muội.
Còn
câu chuyện về hòa giải đã tốn khá nhiều giấy mực và dấy lên nhiều cuộc
tranh luận chưa ngã ngũ, tôi không dám bàn đến, chỉ xin nói rằng: Nếu
anh A đánh anh B bị thương thì còn bàn đến chuyện hòa giải để mang hai
anh lại, cùng ngồi vào bàn nói chuyện với nhau, để anh A nói chuyện xin
lỗi và bồi thường cho anh B. Cần phải lưu ý trong chuyện này, anh A phải
là người chủ động, có thiện chí thực sự, và phải nhận thức được lỗi lầm
của mình. Anh A phải mang tiền thuốc men và thành khẩn đến nhà anh B
nói chuyện hòa giải, để mong anh B khỏi kiện ra tòa; chứ không phải cứ
trịch thượng ngồi nhà, rồi cho người ra đánh tiếng trước cổng nhà, rêu
rao về hòa giải. Còn trường hợp anh A đánh anh B chết thì theo luật
pháp, dù gia đình anh B có muốn tha cho anh A cũng không được, vì hành
vi của anh A lúc này là tội phạm hình sự không chỉ lấy đi tính mạng của
cá nhân anh B mà còn xâm phạm đạo đức và ảnh hưởng nghiêm trọng đến cách
cư xử bình thường của xã hội. Lúc này, vai trò giải quyết vụ việc phải
được giao cho luật pháp, chứ không ai có thẩm quyền bàn đến trừng phạt
hay tha thứ. Sau khi Công lý được thực thi thì mới tính đến chuyện hòa
giải giữa hai gia đình A và B. Thật vậy, Hòa giải cần một số điều kiện,
mà Công lý là điều kiện không thể bỏ quên.
Để kết thức bài viết,
tôi xin chia sẻ rằng: học viện Trần Nhân Tông có nhiều nhân sự và cố
vấn phương Tây, nhưng điều đó không phải là một bảo chứng hữu hiệu cho
uy tín và giá trị của học viện này. Sau buổi trao giải thưởng vắng mặt
cho hai chính khách Burma và những phát hiện của công luận về việc đưa
thông tin không đúng sự thật của tổ chức này, học viên Trần Nhân Tông
xem như đã mở đầu “vở kịch” không được thành công. Và nhân đó, chúng ta
cũng cảm nhận được rằng: uy tín của một tổ chức không đến từ thành phần
nhân sự khoa bảng bằng cấp đầy mình, mà đến từ thời gian làm việc
nghiêm túc trong tinh thần trách nhiệm và tôn trọng sự thật.
Là
một người ít học, ít tuổi nhưng lại hay nói thật những điều mình nghĩ,
tôi rất mong nhận được cái nhìn bao dung từ độc giả. Thành thật mong
rằng, tranh luận không đẩy người ta ra xa nhau mà mang chúng ta đến gần
nhau trong tinh thần mưu cầu sự thật.
Huỳnh Thục Vy
Tam Kỳ ngày 15 tháng 10 năm 2012
No comments:
Post a Comment