Tôi sinh ra tại một thành
phố nhỏ trên dãi đất chữ S của nước Việt Nam mà địa danh là một tên gọi theo
tiếng ngoại quốc thật là kỳ lạ.
Người Pháp (thực dân) chỉ
chọn đặt tên riêng cho hai thành phố của Việt Nam là “Ville de Tourane” và “Ville de Faifo” để gọi nơi tôi sinh
ra. Cho đến gần cuối năm 1945, hai thành phố này mới được mang tên Việt:
Tourane trở thành Thái Phiên, sau đổi thành Ðà Nẵng. Ville de Faifo đổi thành
Hội An, rồi thị xã Hội An, xã Hội An và nay mang tên thành phố Hội An thuộc
tỉnh Quảng Nam
.
Thập niên 1940’s, thành phố
mang tên Tây Faifo được một nhạc sĩ người Việt gốc Hoa là La Hối (tên thật La
Doãn Chánh) sinh năm 1920 thành lập HỘI
HIẾU NHẠC THÀNH PHỐ FAIFO đầu tiên
mang tên La Société Philharmonique de Faifo,
mà ông là Sáng Lập Viên kiêm Hội Trưởng.
Hội viên là các nhạc
sĩ trẻ tại địa phương như Lê Trọng (tức Lê Trọng Nguyễn sau này), Dương Minh
Ninh, Lan Ðài, Hồ Vân Thiết, Huỳnh Phụng, Dương Minh Hòa, Trương Ðình Quang,
Vương Quốc Mỹ. . . còn nhiều vị nữa mà tôi không nhớ tên, đã sáng tác nhiều
nhạc phẩm, đã in ấn và phổ biến rộng rãi trong thập niên 50's-70's tại Việt
Nam
.<!-- Read more -->
.<!-- Read more -->
Hàng tuần, các nhạc sĩ trong
hội tổ chức những buổi hòa nhạc miễn phí để giúp vui bà con trong thành phố rất
bé nhỏ này. Ban nhạc chỉ gồm có một piano, một accordéon, hai violons, một saxophone, một clarinet, vài
guitares, banjo, banjo alto, mandoline, contre-basse và dàn trống….” toàn cây
nhà lá vườn” (một nhạc sĩ sử dụng 2 hay 3 nhạc cụ thay đổi để đỡ nhàm chán
thính giả).
Nhạc khúc trình tấu mở đầu
luôn luôn là nhạc phẩm LE PRINTEMPS ET LA JEUNESSE của nhạc trưởng LA HOY (xem như nhạc hiệu của ban nhạc)
Vì trong ban nhạc, các nhạc
công đang được nhạc sĩ LA HỐI hướng dẫn nhạc lý, hòa âm và sáng tác ca khúc
cũng chưa có tác phẩm nào nên ban nhạc hòa tấu những nhạc phẩm tây phương thịnh
hành thời đó như Beau Danube Bleu, One Day When We Were Young, Princesse
Zardas, Serenata, Ave Maria, Serenade de Schubert, Come Back to Sorriento,
Flots du Danube, Tango Chinois, cùng một số
nhạc Trung Hoa, Nhật bản thịnh hành… vân vân.
Thời
còn trẻ tôi rất thích đi nghe hòa tấu của các nhạc sĩ trong ban nhạc của nhạc sĩ La Hối, sau đó tiếp tục nghe nhạc
ở Saigon và Huế trong thập niên 50's - 60's. Đa số những
bản nhạc từ Tây phương như nhạc của gia đình Strauss, nhạc của Chopin,
Schubert, Schuman. Mãi đến thập niên sau 1950’s mới nghe nhiều ca khúc gọi là
Tân Nhạc Việt Nam (sau 1954
khi nhiều nhạc sĩ, ca sĩ từ ngoài Bắc di cư vào Nam).
Ðầu thập niên 1950’s đọc báo
chí từ Hồng Kông gửi sang, tôi rất vui khi biết tin bản nhạc “Le Printemps Et
La Jeunesse” của nhạc sĩ La Hoy được thính giả Hồng Kông yêu cầu nhiều nhất và
số dĩa nhựa bán ra cho thính giả các nước Á Châu có Hoa Kiều trú ngụ tăng lên
rất cao. Khi sáng tác, tác giả đặt tên nhạc khúc bằng tiếng Pháp mà lời ca được
thi sĩ Diệp Truyền Hoa viết bằng tiếng Hoa, tên là Thanh Niên Dữ Xuân Thiên (về
sau ông này làm giáo sư Hoa ngữ tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn). Nhờ nhạc có nét Tây Phương và lời bằng tiếng
Trung Hoa, nên người Trung Hoa hiểu và thích.
Năm 1946, đoàn ca vũ nhạc kịch Anh
Vũ từ thủ đô Hà Nội đi lưu diễn các tỉnh miền Trung,
Nam Việt Nam. Sau khi
trình diễn tại Huế, đoàn trực chỉ Hội An. Mặc dù lúc đó Hội An đang bị mưa to
gió lớn ngập lụt dâng cao quốc lộ số 1 từ Đà Nẵng vào Hội An.
Đoàn Anh Vũ được sự giúp đỡ tận tình của
nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn và một số thanh niên tại Hội An nên đoàn văn nghệ vẫn
đến được Hội An để trình diễn vở kịch Tục
Lụy của nhà văn Khái Hưng do nhạc sĩ Lưu Hữu Phước viết nhạc.
Ông Võ Đức Diên là trưởng đoàn và trong
đoàn có thi sĩ Thế Lữ (và vợ là Song Kim, một nữ kịch sĩ có tài), nhạc sĩ Văn
Chung, nhạc sĩ Bùi Công Kỳ, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát và một số ca kịch sĩ nữa
tháp tùng.
Khi đến thành phố Hội
An, các nhạc sĩ đồng hành với nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát muốn liên lạc với nhạc
sĩ La Hối. Đến nơi mới biết La Hối không còn nữa.
Gia đình cố nhạc sĩ
La Hối cho biết: “Ngày 1 tháng Tư, năm 1945, La Hối và 9 đồng chí bị Nhật bắt
giam vài tháng trước đó, đã đem ra xử chém tại núi Phước Tường, gần phi trường
Đà Nẵng và chôn chung một hố”.
La Hối (1920-1945) khi bị xử tử
mới có hai mươi lăm tuổi. Ông đang yêu đời, yêu nước, và đang sáng tác một số tình ca và nhạc khúc hùng mạnh chống phát xít
Nhật.
Thi sĩ Thế Lữ xin phép gia đình họ
La để đặt lời ca cho nhạc phẩm Le
Printemps et la Jeunesse, thành lời ca tiếng Việt “Xuân và Tuổi Trẻ”
Nhạc
sĩ Nguyễn Xuân Khoát soạn hòa âm, nhạc sĩ Văn Chung soạn vũ điệu, Thế Lữ
đạo diễn.
Thế
là nhạc khúc Xuân Và Tuổi Trẻ của cố nhạc sĩ La Hối được cất cao giọng hát bằng tiếng
Việt lần đầu tiên tại nhà hát Phan Hương trên đường Minh Hương, thị xã
Hội An. Về sau chính trên khu đất này, một hý viện hiện đại 1200 chỗ ngồi do
thân phụ tôi dựng lên để thay thế nhà hát cũ, đó là hý viện Phi Anh, khi tên
đường đổi thành Phan Châu Trinh.
Nhờ có lời ca bằng tiếng
Việt, nhạc khúc Xuân Và Tuổi Trẻ của La Hối được cộng đồng người Việt ưa thích
nên đem phổ biến rộng rãi từ ngày ấy và chúng ta hát hiện nay mỗi khi xuân về
cùng với Ly Rượu Mừng của nhạc sĩ Phạm Đình Chương.
Ðến cuối thập niên 1950’s
nhạc phẩm Nắng Chiều của nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn lại được nhiều người Hoa và
người Nhật thích nên họ tự động đặt lời ca bằng tiếng Hoa cho ca sĩ Kỷ Lộ Hà
hát, tiếng Nhật cho ca sĩ Midori Satsuki hát.
Khi đến trình diễn tại Saigon và Đà Nẵng một vị đại diện ban tổ chức mới gặp
đươc tác giả Nắng Chiều bèn xin phép được phổ biến các lời ca này.
Thời gian này, tôi dạy học
cùng trường trung học Nguyễn Duy Hiệu tại Quảng Nam với nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn
nên có dịp hỏi nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn về thù lao tác quyền. Anh Lê Trọng
Nguyễn cười: “Chẳng có xu teng nào nhưng ‘moa’ vui vì họ phổ biến và thích nhạc
của ‘moa’, như vậy là quý rồi!”
Tôi hỏi tiếp một câu nữa:
“Anh Nguyễn có đọc và hiểu lời ca họ viết bằng Hoa Văn và Nhật Bổn Ngữ không?”
Anh Lê Trọng Nguyễn cười và
nói: “Có ai thông dịch ra tiếng Việt đâu mà ‘moa’ hiểu. ‘Moa’ chỉ cần thính giả
người biết tiếng Hoa, tiếng Nhật nghe, còn Nắng Chiều tiếng Việt hay Evening
Sunshine thì đã có người hát và hiểu rồi!”
Được vui khi biết ca khúc
Việt Nam
mà được phổ biến ở ngoại quốc. Nhưng ca khúc bị hạn chế bởi lời ca. Nếu thính
giả ngoại quốc không hiểu lời ca thì nhạc khúc cũng chẳng ai biết nếu không có
giai điệu thật quyến rũ.
Vì thế nhạc sĩ Lê Trọng
Nguyễn và tôi nghĩ đến nên sáng tác những nhạc khúc không lời để hy vọng phổ
biến rộng rãi hơn.
II- GIỚI THIỆU VÀI NHẠC SĨ
TIÊN PHONG TẠI ĐỊA PHƯƠNG
NHẠC SĨ LA HỐI (1920-1945)
Nhạc sĩ La Hối tên thật là La Doãn Chánh, sinh năm 1920
tại Faifoo (thành phố Hội An).
Ông là người Hoa gốc Quảng Đông (Trung Hoa).
Họ LA là một đại gia Hoa kiều đa số lập nghiệp trên đường
Rue des Cantonais (Phố Quảng Đông), sau này đổi thành đường Nguyễn Thái Học,
như nhà buôn La Thiên Thái, La Thiên Ba, La Thiên Hòa, La Ngọc Anh tại phố cổ
Hội An và La Hoài, đường Gia Hội tại Huế.
Gia đình cha mẹ tôi sống cùng dãy phố bên cạnh các gia
đình họ La đó.
Năm 1936-1938, La Hối vào Saigon để học tiếp văn hóa
Trung Hoa bậc Cao Trung và đồng thời
trau dồi thêm âm nhạc cổ điển Tây phương và sáng tác. Ông sử dụng thành thạo guitare,
accordéon và piano.
Về lại địa phương ông thành lập Hội Hiếu Nhạc Hội An (La Société philharmonique de Faifoo) mà ông là hội trưởng sáng
lập.
Ông tiếp tục hướng
dẫn các nhạc sĩ trẻ tại địa phương như Lê Trọng Nguyễn, Lan Đài, Dương Minh
Ninh, Hồ Vân Thiết, Trương đình Quang... trong lĩnh vực hòa âm, sáng tác âm
nhạc.
Theo nhiều người trong gia đình họ La cho biết, khi La
Hối đi dạy nhạc, ông đã yêu một cô giáo dạy dương cầm. Tình yêu này đã thúc đẩy
ông sáng tác một số tình khúc để riêng tặng người yêu. Và chỉ có người bạn gái
này mới giữ đủ nhạc phẩm do La Hối sáng tác. Gia đình họ La chỉ biết và giữ một
vài ca khúc của La Hối trong số này có nhạc phẩm Le Printemps et la Jeunesse
(đầu đề bằng Pháp ngữ và một người bạn Hoa kiều họ Diệp đặt lời ca bằng Hoa ngữ
Thanh Niên Dữ Xuân Thiên).
Riêng cô giáo dạy dương cầm, vì chiến tranh xảy ra từ sau
1945 đến 1975, nên gia đình họ La không còn nhớ tên và mất liên lạc với cô này
để xin ghi chép lại các sáng tác âm nhạc của nhạc sĩ La Hối. Vì thế xem như tuyệt
bản sau khi nhạc sĩ La Hối mất sớm (mới ngoài 25 tuổi).
Thập niên 40, quân đội Thiên Hoàng Nhật Bản với chủ
trương Đại Đông Á đã xâm chiếm Trung Hoa, Triều Tiên, Việt Nam và một số quốc
gia ở Đông Nam Á, La Hối là một thanh niên Trung Hoa yêu nước đã tham gia vào
phong trào chống Phát Xít Nhật Bản. Ông là người đứng đầu một nhóm Hoa kiều tại
Việt Nam theo Trùng Khánh (phe Thống Chế Tưởng Giới Thạch) trong Trung Hoa Quốc
Dân Đảng. Đây là một đảng bộ lớn ở hải ngoại hoạt động tại Hội An và khắp Việt
Nam. Hoạt động chống Nhật Bản tại địa phương có nhiệm vụ theo dõi tình hình
điều quân, chính trị, văn hóa Nhật. Các đồng chí của ông kẽ biểu ngữ, in và
phân phát truyền đơn chống Nhật Bản, phá hoại các nơi Nhật Bản đồn trú, phá kho
lương thực, đầu độc các con ngựa chiến mà các sĩ quan Nhật Bản cưỡi để thị
oai...
Theo một vài cựu đồng chí người Hoa tiết lộ, “nhạc sĩ La
Hối đã dùng mấy notes nhạc trong phần dạo khúc mở đầu (introduction) của nhạc
phẩm Thanh Niên Dữ Xuân Thiên: là
là là là, là là là rê, là là là mí, là là lá fá, là là là sól, là là là lá sól
mi đô là, sót mi rề làm mật khẩu liên lạc công tác.”
Hiến binh Nhật Bản đã theo dõi và phát hiện những hoạt
động của phong trào chống Nhật này.
Và ngày 1 tháng Tư, năm 1945, La Hối và 9 đồng chí bị
Nhật bắt giam vài tháng trước đó,gồm có: La Doãn Chánh (La Hối), Lâm Kiến
Trung, Thái Văn Lễ, Tạ Phúc Khương, Lương Tinh Tiêu, Vương Thanh Tùng, Trình
Duy Huấn, Trịnh Yến Xương, Lâm Bình Hoành và Kim Bính Bồi không ngờ bọn
quân phiệt Nhật Bản độc ác đem ra xử
chém tại núi Phước Tường, gần phi trường Đà Nẵng và chôn chung một hố.
Các nhạc phẩm mà nhạc sĩ LA HỐI đã sáng tác, người thân
trong gia đình phải tẩu tán sợ liên lụy, hy vọng sau thời gian giam cầm ông
được trả về sẽ ghi lại nhưng nhạc sĩ La
Hối đã hy sinh.
Vì thế không còn tìm thấy nhạc phẩm nào của ông trừ bản
nhạc LE PRINTEMPS ET LA JEUNESSE và lời bằng Hoa ngữ THANH NIÊN DỮ XUÂN THIÊN
do thi sĩ Diệp Truyền Hoa đặt lời ca thi sĩ còn cất giữ.
Sau khi Nhật Bản đầu hàng đồng minh, Ngũ bang Trung Hoa
Lý Sự Hội ở Hội An cải táng 10 liệt sĩ Trung Hoa này tại nghĩa trang Thanh Minh
(ngoại ô thành phố Hội An), lập Kỷ niệm đài để người dân địa phương không phân
biệt Việt Nam hay Hoa kiều đến viếng mộ các chiến sĩ kháng Nhật.
Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc TƯỞNG GIỚI THẠCH truy tặng
10 Liệt Sĩ này bốn chữ “ DÂN TỘC CHÍNH KHÍ “ để tuyên dương sự hy sinh kháng
Nhật.
.NHẠC SI
LÊ TRỌNG NGUYỄN (1926 – 2004)
Nhạc sĩ LÊ TRỌNG NGUYỄN
Nhạc sĩ LÊ TRỌNG NGUYỄN sinh
ngày 1 tháng 5 năm 1926 tại Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông qua đời ngày 9 tháng
1 năm 2004 tại Nam California.
Lúc còn trẻ, ông ra Hà Nội đi
học, sau trở về Hội An được nhạc sĩ LA HỐI hướng dẫn nhạc lý, hòa âm căn bản,
sau đó ông tự học nhạc qua các sách nhạc lý viết bằng tiếng Pháp tại các thư
viện trong nước, cuối cùng ông ghi tên theo học hàm thụ âm nhạc cours
Universelle tại Paris, Pháp trong nhiều năm. Ông là hội viên hội S.A.C.E.M (Société
des Auteurs, Compositeurs et Éditeurs de Musique) Hội những Tác giả,
Nhạc sĩ sáng tác và Nhà Xuất bản Âm Nhạc
tại Pháp.
Ông là cựu giáo sư âm nhạc
trường trung học Nguyễn Duy Hiệu tại Quảng Nam (1959-1962)
Một vài sáng tác âm nhạc của
nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn (xếp theo A,B,C):
-BẾN GIANG ĐẦU (còn có tên NẮNG CHIỀU II)
-CÁNH NHẠN BAY QUA
-CHIỀU BÊN GIÁO ĐƯỜNG
-CHIM CHIỀU KHÔNG TỔ
-CUNG ĐIỆN BUỒN
-ĐỪNG QUÊN NHAU
-KHI BÓNG ĐÊM VỀ (còn có tên QUÁN NỬA KHUYA)
-LÁ RƠI BÊN THỀM
-LET’S COME CLOSER
-LỜI VIỆT NỮ
-MÀU TÍM HOÀNG HÔN
-NẮNG CHIỀU
-NGÀY MAI TRỜI LẠI SÁNG
-NGUYỆN CẦU
-NHÌN BIỂN BƠ VƠ
-NHỚ THU HÀ NỘI
-SAO ĐÊM
-SÓNG NƯỚC VIỄN PHƯƠNG
-THUYỀN LÃNG TỬ
-TÌM NƠI EM
-TRĂNG LẠI SÁNG
Vân vân…
Ông cũng đã viết một số nhạc không lời (musique sans parole)…và một
vài bản thảo sách dạy âm nhạc và sáng tác ca khúc.
NHẠC SĨ DƯƠNG MINH NINH
Nhạc sĩ DƯƠNG MINH NINH
Nhạc sĩ DƯƠNG MINH NINH sinh
tại Hội An
Nhạc phẩm đã in ấn (Nhà xuất
bản TINH HOA)
-GẤM VÀNG
-ĐƯỜNG CHIỀU
Vân vân…
NHẠC SĨ LAN ĐÀI (1926
-1982 )
Nhạc sĩ LAN ĐÀI tên thật là
NGUYỄN KIM ĐÀI sinh năm 1926 tại HỘI-AN, QUẢNG-NAM.
Ông qua đời tháng 3 năm 1982
tại Long-Hương, Bà-Rịa.Mộ phần an tang tại Nghĩa trang giáo xứ Long Hương, Bà
Rịa.
Trong những năm 1946-47 khi
Việt Minh kháng chiến chống Pháp, Lan
Đài bị kẹt ở vùng chiến khu Nam Ngãi Bình Phú nên phải tham gia hoạt động văn
nghệ ở Liên khu V cùng với các nhạc sĩ đồng cảnh ngộ như Lê Trọng Nguyễn, Phan
huỳnh Điểu, Trương Đình Quang…, sau đó bị Việt Minh theo dõi vì nghi ngờ ông
thuộc thành phần có hoc, tiểu tư sản đang có ý định “dinh tê” trốn về
“thành”như một số văn nghệ sĩ nên bắt ông bỏ tù, giam tại nhà lao Tiên Hội, một
trong những nhà lao giam giữ khắc nghiệt nhất thời bấy giờ thuộc vùng Tiên
Phước, Quảng-Nam. Nhưng may mắn cho ông,
ông được phóng thích năm 1954 sau khi có
hiệp định đình chiến Genève ký kết.
Ông trở về sinh sống ở vùng
tự do do chính phủ “quốc gia” kiểm soát.
Năm 1955 ông làm giáo sư dạy
âm nhạc tại trường trung học Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phan Rang.
Năm 1956, làm giáo sư dạy âm
nhạc tại Trường Trung hoc Kiểu mẫu Thủ Đức.
Năm 1957 làm việc tại Bộ Thông
Tin, Saigon.
Từ năm 1959 trở về sau ông mở
lớp dạy nhạc ở Saigon, viết sách dạy nhạc
(chuyên về Tây Ban cầm), sách dạy sáng tác nhạc.
Ông sáng tác nhiều ca khúc,
cho in ấn và phổ biến rộng rãi như:
-CHIỀU THƯƠNG NHỚ (phổ thơ Hoàng Hương Trang),
-NUỐI TIẾC,
-ĐÔI TAY
NGỌC NỮ,
-CÂU CHUYỆN TÂM TÌNH,
-QUÁN CHIỀU,
-TÌM VỀ,
-NỤ CƯỜI TÁI NGỘ,
-TÀ ÁO TRINH NGUYÊN,
-NÓI ĐI EM,
-SAO VẪN CÒN THƯƠNG,
-EM LÀ TẤT CẢ (viết chung với
MẠNH PHÁT),
-TÀ ÁO TÍM (viết chung với
MẠNH PHÁT),
-XẾP ÁO THƯ SINH ( với ĐẰNG
VÂN),
-NHẠC RU TUỔI HỒNG (tuyển tập
nhạc viết chung với NGUYỄN HIỀN, ANH VIỆT, HOÀNG NGUYÊN, LÊ TRỌNG NGUYỄN),
-NHẠC XANH ( tập nhạc viết
chung với Y VÂN).
vân vân…
Ông chọn nghề giáo sư dạy âm
nhạc nên đã viết nhiều sách dạy nhạc đã xuất bản:
Tự học TÂY BAN CẦM theo
phương pháp cấp tốc: SƠ CẤP, TRUNG CẤP.
Tự học TÂY BAN CẦM (nhạc
khiêu vũ, nhạc Jazz)
Tự học HẠ UY CẦM (guitare
hawaienne) HẠ BĂNG CẦM (Banjo alto)
Tự học ĐẠI HỒ CẦM (contre
basse)
NGHỆ THUẬT ĐỘC TẤU TÂY BAN
CẦM
Tự học UKULELE (viết chung
với LÊ TRỌNG NGUYỄN)
Tự học KHIÊU VŨ
Tự học KHẨU CẦM (harmonica)
(dị chuyển và đồng chuyển) ( viết chung với ĐẰNG VÂN)
ĐỂ SÁNG TÁC MỘT BẢN NHẠC PHỔ
THÔNG
KỸ THUẬT HÒA ÂM
HÒA ĐIỆU SƠ CẤP
HÒA ĐIỆU TỔNG QUÁT
NHẠC LÝ CĂN BẢN
Tự học TÂY BAN CẦM ĐIỆN, TBC
ĐIỆN TRẦM
TỰ ĐIỂN TÂY BAN CẦM (2000 THẾ
BẤM)
Tự học MĂNG CẦM (MANDOLINE)
và BĂNG CẦM (BANJOLINE)
…
Khi nhạc sĩ LA HỐI thành lập
HỘI HIẾU NHẠC FAIFO (LA PHILHARMONIQUE DE FAIFO ) vào đầu thập niên 1940’s nhạc
sĩ LAN ĐÀI đã cùng nhiều nhạc sĩ trẻ tại đia phương như LÊ TRỌNG (tức LÊ TRỌNG
NGUYỄN sau này), DƯƠNG MINH NINH, DƯƠNG MINH HÒA, HỒ VÂN THIẾT, TRƯƠNG ĐÌNH
QUANG, HUỲNH SỎ, HUỲNH PHỤNG, HUỲNH ĐỒNG, HUỲNH CẦM, HOÀNG TÚ MỸ, LA GIA QUẢNG,…cùng
tham gia và hoạt động âm nhạc tại thành phố FAIFO nhỏ bé này dưới sự hướng dẫn
nhạc lý, hòa tấu và sáng tác ca khúc của sáng lập viên kiêm hội trưởng nhạc sĩ
LA HỐI (LA DOÃN CHÁNH).
Nhạc sĩ LAN ĐÀI lập gia đình
với ca sĩ DIỄM HỒNG (Vũ thị Hồng Lê) có 3 người con, một gái, hai trai hiện
định cư tại AUSTRALIA
NHAC SĨ TRƯƠNG DUY CƯỜNG
Ông sinh ngày 26 tháng 11 năm
Bính Tý ( 8 Janvier 1937) tại ville de FAIFO (thành phố Hộ-An)
Năm 1954 ông ghi danh theo học hàm thụ âm nhạc, hòa âm
và sáng tác ca khúc ở lớp dạy âm nhạc “cours Universelle” (Paris, France).
Sau đó ông bắt
đầu viết một vài ca khúc ngắn.
Những ca khúc đã xuất bản như :
-Mùa Hoa Phượng Vỹ (1956),
-Men Nhạc Chiều (1956),
-Ép Hoa Giữ Làm Tin (1956),
-Sài-Giang Dạ Khúc (1956),
-Đêm Trăng Trên Sông Sài (1956),
- Lưu Luyến (1957),
-Vũ Khúc Ngày Xanh (1957),
-Niềm Tin Bất Diệt (1957: được giải thưởng khuyến khích âm nhạc Saigon
1958),
-Thanh Niên Cộng Hòa Việt Nam Hành Khúc (1958: được giải thưởng khuyến khích âm nhạc Saigon 1959),
-Hè Đồng Quê (1958),
-Người Mẹ Học Đường (1959),
-Tình Tháng Năm (1959),
-Cành Hoa Sim (1959),
-Mừng Ngày Tươi
Sáng (1959),
-Em Vẫn Đợi Ngày Về Của Anh (1962) sáng tác trước khi ông lên đường nhập ngũ động viên Khóa 16 Sĩ Quan Trừ Bị
tại Liên trường Võ Khoa Thủ-Đức (1963),
Các nhạc phẩm trên đã được Nhà xuất bản TINH HOA MIỀN
NAM (SAIGON) của nhạc sĩ LÊ MỘNG BẢO phát hành và các ban nhạc Vô Tuyến Việt
Nam như Võ Đức Thu, Vũ văn Tuynh …. nhiều lần trình bày trên làn sóng điện đài
phát thanh Saigon, Quân Đội, Huế (từ
1957-1975).
Ông là hội viên
HỘI VĂN NGHỆ SĨ QUÂN ĐỘI VNCH (trước 1975).
Cựu giáo sư trung học Nguyễn Duy Hiệu, Phạm Hồng Thái
và Trần Quý Cáp (Quảng-Nam).
Ngoài những ca khúc, ông cũng viết vài
nhạc khúc ngắn không lời…dùng những notes nhạc ghi những suites de
valses, sérénades…khi theo học các lớp nhạc hàm thụ bên Paris, Pháp, nhưng ông tự cảm thấy vẫn chưa tới đâu nên không tiếp tục sáng tác nữa.
KẾT LUẬN:
Tôi muốn ghi lại sinh hoạt âm nhạc khởi đầu tại thành phố tôi
đã được sinh ra ville de FAIFO từ đầu thập niên 40’s của thế kỷ
XX, khi nền “nhạc mới” (còn gọi tân nhạc, nhạc cải cách…) Việt Nam mới hình
thành những bước chập chững đầu tiên, tuy vậy đã có những sáng tác của hai nhạc
sĩ là LA HỐI và LÊ TRỌNG NGUYỄN được giới âm nhạc ngoại quốc phổ biến rộng rãi
như một hãnh diện chung của nền âm nhạc Việt-Nam chúng ta.
©PHƯƠNG-DUY TRƯƠNG DUY CƯỜNG
San Jose những ngày cuối năm Nhâm Thìn 2012
No comments:
Post a Comment