Saturday, March 31, 2012

GIÃ TỪ VŨ KHÍ - Bút ký của HUY VĂN (Tiếp theo)


Thứ Ba 25- 03- 1975.
Sáng họp khẩn bên liên đoàn mới hay Pháo Đội 12 của Đại Úy Phương và Trạm Xá của Y Sĩ Đại Úy Nguyễn Trung Tín đã về tới Phú Lộc hôm qua. Ban 4 hành quân rời Hương An ngay sau khi liên lạc và điều động đoàn xe quân vận đến bốc toàn bộ liên đoàn về hậu cứ. Gọi "đoàn xe" cho oai chớ thiệt ra chỉ là vài chiếc tăng phái vì nhu cầu, đâu phải chỉ có Bịệt Động Quân ! Vì vậy xe hậu trạm rồi cơ hữu của từng tiểu đoàn cũng được xử dụng tối đa.
<!-- Read more -->
 
Tuy không kẹt xe và hỗn loạn như hôm qua, nhưng quốc lộ vẫn một nhịp hối hả, cấp bách của xe cộ đủ loại, nhất là xe nhà binh. Về ngang quận Duy Xuyên đã thấy dòng người từ trong Trà Kiệu túa ra đủ để gây khó khăn cho giao thông trên trục lộ chính. Xe và người cứ thế mà dồn về Đà Nẵng. Vĩnh Điện cũng bị kẹt cầu, kẹt đường, vì xe từ tỉnh lộ nối với Giao Thủy,  quận Đại Lộc cũng rần rần nhập vào.
 
Nhưng về tới Miếu Bông, Câu Lâu, Phước Tường rồi Ngã Ba Huế  thì sự hớt hãi mới rõ nét với những lo lắng, hoang mang trên mặt người vì sự dồn nén, bế tắc lưu thông trên suốt đoạn đường "sóng gió" vừa qua. Phải dùng đến sự thị uy của quân cảnh trên mấy chiếc Commando mới giải tỏa được trật tự và an ninh phần nào trên đường con đường từ ngã ba này dẫn vào thành phố ở tay phải, hướng Đông . Xe từ Huế vô, từ Quảng Tín ra đều bị dồn cục tại đây.. Người theo xe nườm nượp. Đà Nẵng đã trở thành ốc đảo, thành chiếc phao và thành niềm hy vọng sau cùng của Quân và Dân ở Quân Khu I. 
 
Không kể thời gian chờ đợi rồi lần lượt lên xe. Phải mất hơn bốn tiếng mới đưa được toàn bộ Liên Đoàn 12 BĐQ rẽ trái về hướng Bắc thêm ba km nữa mới  tới Hậu Cứ Phú Lộc. Nhưng không phải ai cũng suông sẽ và may mắn như những chuyến đầu tiên. Đoàn xe sau cùng, võn vẹn có 6 chiếc dành cho TĐ 37 và quân nhân còn lại của TĐ 21, đã bị phục kích tại cầu Bà Rén, cửa ngõ vào Đà Nẵng từ hướng Nam, ngay trong vùng trách nhiệm của Trung Tá Võ Vàng, gốc TĐ 21/LĐ 1/ BĐQ, lúc đó đã về Tiểu Khu Quảng Nam làm Liên Đoàn Trưởng/ LĐ 912 Địa Phuơng Quân hoạt động ở quận Quế Sơn.
 
Đường về lại chia hai ngả: kẻ rẽ phải qua Tổng Y viện Duy Tân để được ướp lạnh hay băng bó, người rẻ trái về Phú Lộc trong sự rời rã đến tột cùng. Phú Lộc của những hân hoan lúc dưỡng quân, của hạnh phúc khi sum họp, đã thật nặng nề với bất ổn và xôn xao cũng như bất cứ nơi nào khác. Nụ cười quen thuộc trong các trại gia binh đã nhường chỗ cho ánh mắt âu lo, bồn chồn. Những giọt nước mắt xót xa cho những ai hy sinh hay trọng thương trong giờ phút cuối. Hậu cứ liên đoàn chưa bao giờ căng thẳng và buồn tẻ như lúc này.
 
Sắp xếp đâu đó xong xuôi là đã chập choạng tối. Ăn tạm mì gói bên câu lạc bộ, về xem công điện và văn thư mới nhận thì Đại Úy Quỳnh vào thông báo Ban 4 trực chính trong ngày nên có công tác khẩn cần thi hành ngay. Tôi giao việc lại cho ông Quỳnh, rồi đến gặp Trung Úy Long, Ban 5, nhận một tiểu đội Kiểm Soát BĐQ và hai chiếc GMC để ra Đà Nẵng tuần tiễu, tước khí giới những quân nhân lạc đơn vị hoặc trấn áp kẻ bất hảo đang phá phách, cướp bóc trong thành phố.
 
Đà Nẵng đang gặp "nạn nhân mãn". Người và xe đầy nghẹt khắp ngã đường. Thành phố đang lên cơn sốt vì dòng người di tản từ hai đầu Bắc - Nam dồn vào không ngớt. Cảnh sát sắc phục đã biến mất. Chỉ thấy Cảnh Sát Dã Chiến và Quân Cảnh Đặc Khu Quảng Đà đang cố vãn hồi trật tự bằng mấy chiếc Commando. Đã có lệnh nổ súng bắn bỏ những ai vô kỷ luật và phá rối trị an. Đã có những thương vong và bất hạnh vì những phát súng vô tội vạ hay cướp bóc lẻ tẻ.
 
Ngoài đường bây giờ lính tráng tới lui tấp nập. Dân chúng cũng xuôi ngược ồn ào. Lại thỉnh thoảng kẹt xe. Đôi lúc phải dừng lại để “ hỏi thăm sức khỏe “ phe ta : những anh em thuộc Liên Đoàn 15 Biệt Động Quân vừa từ Huế di tản vào. Tội nghiệp cho những con Cọp không còn nanh vuốt. Không có vũ khí phòng thân cũng khổ cho họ, nhất là trong tình trạng hỗn loạn như hiện giờ. Nhưng biết làm sao hơn. Lệnh là lệnh. Không thể không thi hành.
 
Lính thì không gom một ai. Vũ khí, đa số là M16, thì cũng được nửa sàn xe. Một vòng phố chính cũng mất hơn hai tiếng đồng hồ. Đủ để chứng kiến cảnh hoang mang của dân tình và vẻ thất thểu của những người lính không còn đơn vị. Sự sụp đổ nhanh quá, như domino trên bàn cờ. Không có gì giữ lại được. Kể cả sự cố gắng ổn định tình hình của tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I, một dũng tướng ngày đêm sát cánh với mọi đơn vị. Đà Nẵng bây giờ là một cái rọ khổng lồ không hơn không kém. Hèn chi địch không cần truy đuổi ráo riết. Cứ để sợi thòng lọng từ từ siết lại. Tuy vẫn còn tiềm năng và đang cố vãn hồi trật tự, nhưng Đà Nẵng không khác gì cá nằm trên thớt, như con mồi đang tuyệt vọng vẫy vùng trong chiếc lưới đang dần dần phủ chụp.
 
23h00. Xe về tới Phú Lộc. Khu gia binh nhìn thoáng qua thì vẫn như lúc bình thường: tối tăm và im vắng sau khi máy đèn ngưng chạy. Nhưng chắc chắn trong từng nhà là những thao thức triền miên vì chỉ chưa có lần nào liên đoàn rối rắm như hiện nay, kể cả Lam Sơn 719 năm 1971 và Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Ba năm, hai lần lui binh khẩn cấp, nhưng lần này thì tình hình tồi tệ đến mức không ngờ. Buồn thay!
 
Hai chiếc GMC nằm ngay giữa sân cờ Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn.“ Chiến lợi phẩm “ để nguyên trên xe. Toàn là súng không có đạn. Mọi thứ khác, kể cả lựu đạn, được mang vào văn phòng Ban 4. Ai nấy đều mệt nhoài. Hai ngày mất ngủ đang bắt đầu hành hạ tôi. Chỉ kịp hoàn tất bản báo cáo là hai mắt đã híp lại không cách gì cưỡng được. Trước khi thiếp đi, tôi cũng còn đọc thấy mảnh giấy trên bàn: 8 giờ sáng 26- 03 họp với LĐT. Nhớ có mặt đúng giờ.
 
Thứ Tư 26- 03- 1975.
Đêm ngủ ngon nhưng sáng dậy cả người khô ran. Câu lạc bộ vẫn đông nhưng câu chuyện đã không ồn ào như mọi khi. Ai nấy cũng đều có vẻ trầm ngâm một cách bất thường. Vài gương mặt quen thuộc của Tiểu Đoàn 37 cũng có mặt. Thì ra cuộc họp có các đại đội trưởng về tham dự.
 
8h00 : Phòng họp đang xì xào to nhỏ tự động lắng ngay xuống khi liên đoàn trưởng xuất hiện. Vào hàng. Phắc. Chào kính. An vị. Lại im lặng. Nặng nề. Trung Tá An trợn mắt nhìn khắp phòng rồi bất ngờ gào lên :
 
- "Nếu tôi là Đại Úy Phương thì ra ngoài sân cờ tự vận cho rồi"...!
 
Mọi người đang bàng hoàng chưa biết chuyện gì xảy ra thì liên đoàn trưởng đã chạy đến đấm túi bụi vào mặt người pháo đội trưởng. Nhưng ông chỉ đánh trúng chừng hai ba cái thì đã bị Trung Tá Hoàng Phổ giữ lại từ phía sau, rồi kéo trở lại bục thuyết trình. Im lặng hồi lâu. Mọi người cũng nín thở sau phút giây bất ngờ. Một lát sau Trung Tá An mới chậm rãi chỉ vào Địa Úy Phương mà nói :
 
- "Người này đã làm nhục cho binh chủng, chưa có lệnh mà đã rút chạy về hậu cứ trong khi mọi người còn ở hành quân"...!
 
Tôi lạnh người vì lời buộc tội này. May quá. Nếu không vì chiếc xe Dodge bị kẹt ngay giữa phố Tam Kỳ thì không biết ai vọt trước ai. Và không chừng tôi cũng chịu chung số phận như Đại Úy Phương hôm nay, nếu không cương quyết ở lại Thăng Bình.
 
Như muốn an ủi con dê bị tế thần, đồng thời giải thích tình trạng hỗn loạn lúc còn ở Quảng Tín, Liên Đoàn Phó Hoàng Phổ ôn tồn giải thích với mọi người là chính ông cũng không nhận được lệnh trực tiếp từ liên đoàn trưởng, mà từ cuộc họp khẩn cấp với Tiểu Khu Truởng, Đại Tá Đào Mộng Xuân ngay sáng 24 vừa qua. Quyết định di tản từ đó mà ra vì không còn liên lạc được với Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 2 Bộ Binh, và cả với Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 12 BĐQ. Kết quả là Trung Tá Hoàng Phổ đã đưa hai Tiểu Đoàn 21 và 37 về đến Thăng Bình sau một ngày di chuyển, và sau khi Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đã yên ổn nằm trong Căn Cứ Hương An từ lâu rồi.
 
Buổi họp sau đó được tập trung vào việc thông báo tình hình chung và tổng kết báo cáo của từng ban và từng tiểu đoàn. Và sau cùng là nhận lệnh ứng chiến tại chỗ cũng như chờ đợi bổ xung về mọi mặt. Không khí rõ ràng là căng thẳng. Sau đó có tin liên đoàn nhận lệnh trực tiếp của tướng Ngô Quang Trưởng để cùng với Sư Đoàn 3 Bộ Binh khai thông đoạn đường từ Non Nước đi Hội An. Nhưng rồi cũng không thấy gì.
 
11h00. Điện thoại từ văn phòng liên đoàn trưởng gọi đích danh tôi qua trình diện. Trung Tá An ngồi yên tại bàn viết chờ tôi chào kính. Ông có mệt mỏi và xanh xao thấy rõ.
 
"Bận quá nên tôi quên. Đây là Sự Vụ Lệnh về lại Tiểu Đoàn 37 để trông coi hậu cứ cho Thiếu Tá Gio. Cố gắng nhé".
 
Tôi nhận sự vụ lệnh rồi trở về Ban 4 ngồi thừ người. Đây là mơ ước từ lâu nhưng bây giờ thì đã trễ. Trung Tá An có lẽ chỉ muốn giữ lời hứa với đàn em mà thôi, vì ông dư biết trong điều kiện như hiện nay thì khó có thể nhận lãnh trách nhiệm mới. Tuy vậy, tôi cũng lội qua hậu cứ của Tiểu Đoản 37 BĐQ theo đường tắt vòng ngang trại gia binh. Hậu cứ  vắng tanh. Không gặp ai quen biết mặc dù chỉ vài tiếng trước đây còn ngồi họp với nhau bên liên đoàn. Qua văn phòng của Đại Đội 3 cũng trống trơn. Vào câu lạc bộ thì chỉ gặp những người không quen. Hỏi thăm về Nguyễn Thanh Vân, người về đơn vị sau tôi chừng một tháng, cũng không ai biết đang ở đâu, một người lính cho biết đã thấy Vân theo Trung Sĩ Tuấn,Trung Đội Phó của Vân ra Đà Nẵng từ lâu.
 
Tôi xuống trại gia binh, định vào thăm gia đình Trung Sĩ Chế Việt, một người bạn văn nghệ và chị Hương, vợ Thiếu Úy Vũ Thành Công, người đã nằm lại trên một ngọn đồi nào đó tại Quảng Tín hai tuần trước. Cả hai nhà đều đóng cửa im lìm. Tôi buồn bã rở về Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, lòng thầm nguyện vài lời kinh cho Phê Rô Vũ Thành Công, người bạn và cũng là người anh đã hết lòng chỉ dẫn tôi mọi điều.
 
Chiều. Dạo một vòng qua hậu cứ 39 và 21 định tìm Cốc A Sam và Nguyễn Văn Ước, hai người bạn cùng khóa, về đơn vị cùng ngày. Cả hai hậu cứ cũng lác đác người ra, kẻ vào. Không ai biết hai người đồng khóa của tôi ở đâu. Lệnh ứng chiến coi như vô hiệu lực. Gía súng vẫn ngay ngắn nằm im trong các "sam", nhưng người cầm súng thì tản mác đâu không thấy. Tình trạng thật đáng buồn.
 
Tôi như kẻ vô gia cư. Trên nguyên tắc, là đã về lại Tiểu Đoàn 37, nhưng thực tế thì không ai màng tôi muốn ở đâu. Thiếu Tá Gio không có công điện triệu hồi. Ban 1 Liên Đoàn chắc là chưa cắt giảm quân số nên hỏa đầu vụ vẫn thoải mái “ Mời thiếu úy ăn trưa “. Bữa ăn trưa không có tiếng hỏi han, bàn bạc tình hình. Vắng mặt hầu hết mọi người. Không khí thật buồn nản gì đâu! Vì vậy tôi quyết định ra Đà Nẵng, một mình. Mấy hôm nay nắng đẹp, trời trong nhưng lòng người thì héo úa. Nhịp sống Đà Nẵng vốn đã vội vàng, sôi nổi, nay lại càng dồn dập hơn, và cuống cuồng hơn bao giờ hết.
 
Bưu điện ra thông báo ngưng mọi dịch vụ chuyển ngân, bưu phẩm v/v... Tình hình trầm trọng đến vậy sao? Vậy là lương tháng nằm gọn trong túi, không còn cơ hội gởi chút ít về cho gia đình như thông lệ. Chờ gần một tiếng mới tới phiên gọi điện thoại. Thằng bạn thân lo lắng hỏi han đủ thứ và cho biết Sài Gòn có tin đồn sẽ bỏ Đà Nẵng. Nhờ hắn nhắn tin tôi vẫn bình an đến gia đình và vài lời tâm tình vụn vặt khác là đành gác máy để còn nhường cho người kế tiếp. Số người chờ gọi điện thoại, chờ gởi điện tín đứng đông nghẹt cả tiền sảnh, lao nhao và bất an thấy rõ.
 
Tôi trở ra đường, lòng nặng trĩu. Đâu cần phải chờ SàiGòn tung tin, ngay tại Đà Nẵng này cũng đã nhìn thấy được phần nào cục diện. Thành phố hỗn loạn hơn bao giờ hết. Ngoài đường bây giờ lính đông hơn dân. Họ đi thành từng đoàn, từng nhóm, đa số vẫn còn vũ khí. Cướp bóc xảy ra càng ngày càng nhiều hơn. Nhưng Đà Nẵng vẫn gượng sống. Hàng quán vẫn xôn xao. Chợ búa vẫn xô bồ. Sinh hoạt nói chung vẫn như mọi ngày mặc dù tình hình đang đến hồi chung cuộc.
 
Bước chân đưa tôi dài theo đường Độc Lập, đến đường Hùng Vương để lên hướng Chợ Cồn. Vừa đi ngang cà phê Chợ Vườn Hoa Diên Hồng, ngay ngả tư Hùng Vương- Yên Báy đối diện Ty Thông Tin thì gặp Nguyễn Văn Kiệt, rút về từ mặt trận Tây- Bắc Đèo Hải Vân.
 
- "Đi đâu lang thang vậy cha. Hai thằng kia đâu" ?  Kiệt “ Mã Tấu “ hỏi tôi trước.
 
"Tao đi một mình. Không gặp Cốc A Sam và thằng Ước". Tôi vừa trả lời vừa bắt tay chào những người ngồi chung với Kiệt.  "Không ngờ mày cũng biết chỗ này. Hai chị em cô hàng là hoa khôi ở đây đó"...
 
" Tao và mấy thằng em đi lòng vòng chơi. Tình cờ thấy hai cô em này bảnh quá nên nhào vô luôn. Sẵn dịp ngồi nhìn qua khách sạn Ô Kê mà nhớ hồi tụi mình mới ra nhận đơn vị. Mày còn nhớ không" ?
 
Tôi gật đầu rồi gọi cà phê. Anh chàng trưởng toán chuẩn úy “ sữa” của gần hai năm trước vẫn không thay đổi: ồn ào, ruột để ngoài da và thoải mái chấp nhận mọi tình huống. Chúng tôi trao đổi tin tức về Liên Đoàn 15 BĐQ vừa di tản vào hôm qua, về tình hình của Đà Nẵng của và những bạn cùng khóa.
 
" Kệ mẹ nó. Tới đâu thì tới. Ai sao mình vậy. Cho tới giờ phút này tụi mình còn nguyên vẹn là đã tốt số lắm rồi". “ Mã Tấu “ nhà ta khẳng khái kết luận.
 
Hai chữ nguyên vẹn làm tôi chợt nghĩ tới đại đội trưởng của tôi thời còn ở Tiểu Đoàn 37. Khi rút khỏi Kỳ An, ông bị trúng mìn cụt chân, được đệ tử cõng và Tiểu Đoàn Phó Trần Văn Quy chận xe, chuyển thẳng về Đà Nẵng, hiện đang nằm trong Tổng Y Viện Duy Tân. Tôi rủ Kiệt vào thăm Đại Úy Vương. “ Mã Tấu “ gật đầu ngay và nói thêm:
 
- Tao có đọc thư của mày nói về người hùng trận Sa Huỳnh, kiêm “ Bố Gìa “ thương mày như con, nên muốn xem mặt ổng cho biết.
 


17h30.Tổng Y Viện Duy Tân! Vườn Hoa Tình Thương của Quân Đội. Nơi xoa dịu những nhức nhối cả thể xác lẫn tinh thần của người chiến sĩ. Niềm hạnh phúc vô bờ của những ai đã bỏ lại máu,thịt, xương của mình ngoài mặt trận. Bệnh viện tối tân đứng hàng thứ nhì của cả nước chiều nay tất bật không kém phố xá ngoài kia. Sôi nổi nhưng trật tự. Thật đáng khâm phục.
 
Đại úy Vương còn đau và mệt sau cuộc giải phẩu, nên chúng tôi không nói chuyện nhiều, chỉ an ủi và bày tỏ sự thông cảm đồng thời trấn an nhau về tình hình hiện tại. Mãnh hổ một thời, nay chỉ là cọp già ba chân nên không dấu sự lo lắng cho vợ con. Tôi hứa sẽ làm hết sức cho gia đình ông và ngay sau đó cảm thấy xấu hổ vì biết là mình sẽ không giữ được lời.
 
- Nhưng ít ra mày cũng đã mang tới cho ổng một tia hy vọng. Kiệt “ Mã Tấu “ thở dài khi chúng tôi ra cổng. Hy vọng là liều thuốc bổ. Mày dư biết điều này mà!
 
Tôi im lặng, trong lòng vẫn còn áy náy. Tép riu như tôi thì làm được gì!? Ngay lúc này tôi cũng là ” Con Bà Phước “ như Kiệt mà thôi. Thấy tôi không vui,” Mã Tấu “ cũng không bắt chuyện. Khi về tới Chợ Cồn mới kéo tôi đi ăn.
 
Cầu Vồng, đường Thống Nhất. Quán cơm bình dân, con đường Nguyễn Hoàng dẫn về ga xe lửa Đà Nẵng, qua đường Khải Định, rẻ phải sang đường Trần Cao Vân, đi vào giáo xứ Tam Tòa ở quận Nhì. Hai đứa lội một vòng sau bữa ăn chiều nhưng không tìm được hai người bạn bên tiếp liệu của tôi, với chủ đích là rủ nhau ra quán mà thôi. Người nhà của họ cho biết là hai bạn đó đã không thấy về từ hôm qua.
 
Lộng Ngọc, Crystal, v.v nằm gần ngả tư đường Độc Lập - Phan Đình Phùng, gần hai rạp xinê Kim Châu và Kinh Đô là những quán cà phê nhạc quen thuộc của dạo nào chân uớt chân ráo mới ra Đà Nẵng. Ngồi cầu may xem có tên nào “ tung cánh chim tìm về tổ ấm “ hay không. Rốt cuộc cũng chỉ có Kiệt và tôi ôn cố tri tân cho đến lúc quán đóng cửa.
 
-"Tao hứa với thằng em là về nhà nó ngủ, nhưng bây giờ thì trễ quá rồi".
 
" Nhà ở đâu" ? Tôi hỏi lại.
 
-"Ông Ích Khiêm".
 
-"Xa quá. Thôi, bụi đời đêm nay đi. Mai tính".
 
Khách sạn Ô Kê. Lại là Ô Kê! Một đêm thân tình với mọi thứ trên đời đem ra kể cho nhau nghe. Mới hôm nào cả đám gần 40 chục tên quai chảo quậy tứ tung lúc mới vừa từ Sài Gòn ra. Sau đó là 8 tên thức trắng để sáng chia tay ra đơn vị ngay sau đêm Noel 1973. Bây giờ chỉ có hai đứa chúng tôi nằm rù rì cho quên niềm ưu tư, lo lắng.
 
Thứ Năm 27- 03- 1975.
Sáng. Chia tay với Kiệt mà lòng bùi ngùi. Hai thằng Sài Gòn gần như thức trắng đêm chỉ để bàn loạn đủ mọi điều liên quan tới thời cuộc để rồi chỉ nhìn nhau thở dài. Lại bắt
tay chúc bình an như hai năm trước. Lại hẹn gặp nhau, nhưng địa điểm là tại…Sài Gòn! Hẹn, mà trong lòng rưng rức, bán tín bán nghi vì…
 
Đà Nẵng trong cơn hấp hối đã trở thành ngựa chứng. Hỗn loạn đến cùng cực. Tình trạng tồi tệ đến mức rối rắm. Không cách gì vãn hồi được trật tự.Nhà cửa ngoài phố đã có dấu hiệu vô chủ. Quân xa và dân xa vẫn chạy nghẹt đường. Lại thêm một ngày gượng sống để chờ phép lạ, hay đúng hơn là chờ được di tản vào Nam trước khi địch tràn vào. Con đường từ quốc lộ vào Phú Lộc bình thường chỉ toàn in bánh xe ôm hay lác đác vài GMC hoặc Jeep ra vào, nhưng sáng nay thì mù mịt bụi cát vì một đoàn quân xa đang từ hậu cứ chạy ra. Không phải chuyển quân, mà dẫn đầu là chiếc Dodge của Bệnh Xá Liên Đoàn. Tôi chua xót nghĩ thầm : không lẽ …
 
Đúng như tôi dự đoán. Khi về tới liên đoàn là nhận được tin Tổng Y Viện Duy Tân đang di tản. Xe ra đón thương binh rồi đưa họ thẳng xuống tàu hải quân để vào Sài Gòn trước. Tàu hải quân đậu ở đâu, bến nào? Không ai biết. Cứ cho xe ra nhận thương binh thì có chỉ thị tại chỗ ngay. Thiếu úy cóc cắn như tôi mà còn biết là đã tới ngày cáo chung của Quân Đoàn I và Đà Nẵng, huống chi các đàn anh cấp lớn hơn.Cho nên tới phiên liên đoàn rơi vào tình trạng vô chủ. Cả hậu cứ vắng tanh dù chỉ mới hơn 10 giờ sáng.
 
Gặp Đại úy Phương tại Ban 4 thì được biết sáng nay không có họp gì cả vì liên đoàn trưởng và liên đoàn phó cùng với các ban trực thuộc hành quân đều không thấy đâu. Chắc là đi họp bên Sư Đoàn 3 Bộ Binh. Các ban khác thì chỉ làm việc cho có rồi mạnh ai nấy chạy lo gởi gấm gia đình trên những chuyến bay cuối cùng rời khỏi Đà Nẵng. Ban 4 thì lo giúp bác sĩ Tín di tản thương binh. Các tiểu đoàn, pháo đội 105 ly và Đại Đội Trinh Sát vẫn án binh bất động, cũng có nghĩa là bất khiển dụng.
 
Bữa cơm trưa trong phòng ăn chỉ võn vẹn có năm người. Đại Úy Phương, Trung Úy Long, Ban 5, Thiếu Úy Hướng, Ban Tài Chánh, tôi, và người hạ sĩ quan ẩm thực. Không có ai muốn gợi chuyện hay bàn luận, kể lể, nên bữa ăn thật buồn tẻ. Hầu như ai nấy cũng chỉ cầm hơi và cố nuốt để không phụ lòng một quân nhân hết lòng với bổn phận và hết tình với quân đội là người đã lo chu toàn hai bữa cơm cho chúng tôi.
 
-"Có gì đâu Thiếu úy. Bổn phận mà". Trung Sĩ Kính cười nhẹ khi tôi ngỏ lời cám ơn sau bữa ăn.
 
Lội một vòng hậu cứ của các Tiểu Đoàn 21 và 39 rồi cả khu gia binh Phú Lộc mà vẫn không tìm được Nguyễn Văn Ước và Cốc A Sam, nên tôi lững thững lội ra tận ga Hòa Khánh, thăm gia đình người chủ quán cà phê Hương Xưa. Quán trưa, người vắng. Anh Quyến, một sĩ quan cảnh sát còn kẹt đâu đó trong Ty Nội An. Tiếp tôi là chị Quyến và Hương, em anh Quyến. Chúng tôi ngồi tại chiếc bàn quen thuộc, trong góc, sát quầy thuốc lá. Nơi mà chỉ mới một năm trước đây là chỗ tụ tập của nhóm nhỏ ưa thích văn nghệ đủ mọi thành phần, đủ loại sắc phục trong vùng.
 
Chiếc bàn có khắc tên những người đã vĩnh viễn ra đi, là nhân chứng của một chuyện tình dễ thương và lãng mạn không thua gì tiểu thuyết, phim ảnh giữa một lao công đào binh, Hồ Huy Đăng và Hương, cô nữ sinh Trung Học Hòa Khánh. Hồ Huy Đăng, người lao công gốc Tiểu Khu Gia Định, dân nhà giàu ham vui, thích làm binh nhì hơn đi học khóa sĩ quan chỉ vì làm lính thì dễ xin về gần Sài Gòn hơn làm quan, tay đàn ghi ta ngọt như Trung Nghĩa, thầy dạy nhảy của hầu hết những ai thích nhót ở Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân, hai lần trúng đạn khi tải thương tại Phong Thử và Tiên Phước, là linh hồn của "Ban Văn Nghệ" tiểu đoàn.
 
Lần nào về dưỡng quân, anh cũng ra đây ngồi mỗi ngày. Cả đơn vị đều tin tưởng anh nên thả lỏng anh muốn đi đâu thì đi, không hỏi han, dò xét và không sợ anh bỏ trốn, dù biết là người nhà đã có lần vào tận hậu cứ để thuyết phục anh vọt ra Đà Nẵng để xuống tàu người anh rể, một sĩ quan cấp tá  lúc đó đang công tác tuần duyên tại Quân Khu Một.
 
-"Dù sao nó cũng có học. Tại gàn bướng và nghệ sĩ quá nên cứ là lính suốt đời"...
 
Thiếu Tá Nguyễn Văn Gio đã từng công khai bày tỏ sự thương tưởng của mình đối với một lao công đào binh đa tài, đa năng. Buồn thay, chỉ một ngày sau khi được phục hồi danh dự, cố Binh Nhứt Hồ Huy Đăng đạp mìn banh xác tại Trà Kiệu, tháng 7 - 1974, để lại những trái tim đẫm lệ tại Phú Lộc, Hòa Khánh và cả Sài Gòn.
 
-"Hồi đó vui quá". Chị Quyến chép miệng thở dài.
 
-"Ngày nào cũng ca hát tới khuya". Hương cũng gật đầu phụ họa. "Mọi người đều nói chưa bao giờ khu này dễ thương đến như vậy".
 
Tôi cũng góp lời nhắc những chuyện tưởng chừng như không thể nào thực hiện được trong môi trường và điều kiện của đời quân ngũ. Trong một lần dưỡng quân, nhằm phiên tôi trực đại đội nên phải dẫn cả trung đội qua nằm bên hậu cứ liên đoàn để ứng chiến. Tối hôm đó cả nhóm văn nghệ tiểu đoàn hẹn nhau ra Hương Xưa để họp mừng sinh nhật của Hương. Kẹt một người cũng mất vui, nên tôi bỏ nhỏ với anh em là nếu có gì cần thì chạy ra quán gọi tôi về ngay.
 
Buổi họp mặt thật vui. Quán cà phê thành sân khấu văn nghệ. Mọi thực khách, từ bạn học của Hương cho tới hàng xóm của anh chị Quyến, vốn là những người lính Sư Đoàn 3, Phân Chi Khu Hòa Khánh và cả Nhân Dân Tự Vệ trong khu vực đều hát hò với nhóm Biệt Động Quân một cách thân mật và tất nhiên người vui nhứt là cô nữ sinh vừa tròn 18 tuổi, và nổi bật hơn hết là Hồ Huy Đăng. Vui quá nên quên cả giờ giấc và ngoại cảnh. Đến khi tan hàng thì tôi điếng hồn khi nhận ra cả đám em út với súng đạn đầy đủ đang cười cười đứng ngay ngoài cửa chờ chúng tôi về chung. Thấy tôi nhăn nhó, người tiểu đội trưởng khinh binh trấn an.
 
-"Chuẩn úy đừng lo. Họ chỉ cần vài người theo tăng cường cho Kiểm Soát BĐQ thôi, nên ông phó cho tụi này ra đây, cả buổi tối mà nằm treo võng trong đó thì chán chết".
 
May quá. Đúng như lời anh ta nói. Không có gì trục trặc trong suốt mấy tiếng đồng hồ vui chơi ngoài quán. Thật là một kỷ niệm khó quên!
 
Tôi từ giả chị Quyến và Hương sau vài lời an ủi về sự lo lắng tất nhiên cho một tương lai mờ mịt. Nói với họ mà cũng như nói với chính mình vì trong hoàn cảnh hiện nay thì ai cũng như ai. Mọi người đều là nạn nhân của thời cuộc. Cách này hay cách khác.
 
Chiều. Hậu cứ vẫn một nhịp điệu lây lất cho hết ngày. Thưa thớt người qua lại. Chỉ có khu vực Ban Tài Chánh là còn một số thân nhân tử sĩ ngồi chờ thủ tục giấy tờ.Và quân xa ra vào để lấy nhiên liệu để lo việc di chuyển thương binh. Các nơi khác đều vắng tanh. Bên câu lạc bộ thì từng nhóm vài ba người ngồi bàn tán công khai tình hình chiến sự. Tôi gặp lại Đại Úy Phương tại đây.
 
Anh Phương ngồi một mình tư lự, tay xoay xoay ly cà phê một cách vô thức trong khi mắt dán vào khoảng trống ngoài cửa sổ kế bên. Thoáng thấy tôi, anh vẫy tay gọi lại ngồi chung bàn.
 
- Huy còn ở lòng vòng với liên đoàn hả?
 
-"Thì cũng như đại úy thôi".
 
-"Tôi thì khác. Dù sao cũng còn mấy tấn sắt vô dụng vì chẳng còn đạn, nằm bên kia chưa biết giải quyết ra sao. Còn Huy thì đã hết bổn phận ở đây rồi mà"...
 
Tôi cười, nói đại khái về tình hình bên Tiểu Đoàn 37 và cả hai tiểu đoàn còn lại cho anh biết rồi kết luận.
 
-"Hậu cứ chẳng còn gì để bàn giao. Dù có thì cũng chỉ là con số trên giấy tờ mà thôi. Giữ sự vụ lệnh lại làm kỷ niệm còn hơn".
 
Chúng tôi cùng im lặng hồi lâu. Anh lại nhìn ra cửa sổ, còn tôi châm điếu thuốc, dựa lưng vào tường, thả bâng quơ vài vòng khói trắng, trong đầu trống rỗng. Một lát sau, tôi nghe tiếng anh thở dài.
 
-"Sáng hôm qua"…
 
-"Tôi rất thông cảm cho đại úy. Mọi người cũng nghĩ như vậy. Vã lại, tôi cũng là nạn nhân của “ bố già “ như anh.
 
Đại úy Phương nhướng mày, ngạc nhiên, nhưng không hỏi thêm mà chỉ tiếp lời vừa bị tôi cắt ngang.
 
-"Tôi biết ông An đang đau lắm. Tôi không hận ông ấy đã đánh tôi. Mình là vật tế thần để ông ấy đỡ mất mặt với mọi người. Xem như đó là cách trả ơn cho quân đội và gánh cái nhục chung với thượng cấp. Trong hoàn cảnh như hiện nay, nếu tôi là “ xếp”, thì cũng phản ứng như vậy thôi".
 
Tâm sự của đại úy Phương làm tôi suy nghĩ về chính mình trong ngày rời bỏ Tam Kỳ. Và mặc dù vẫn thấy liên đoàn trưởng hơi quá đáng, tôi cũng đồng tình với anh Phương khi nghĩ về nỗi lòng của Trung Tá An. Câu nói của Đại Úy Phương về chuyện trả ơn cho quân đội cứ lảng vảng trong đầu sau khi từ giả nhau. Cứ mãi nghĩ ngợi lan man mà không biết tôi đã đi hết chiều dài của Phú Lộc và đang trên đường vào hậu cứ Tiểu Đoàn 37. Nhưng thay vì quẹo phải để tới cổng chánh thì tôi đi thẳng, xuyên qua ngôi làng nhỏ, ngay trước mặt hậu cứ để ra tới biển, nơi đó là làng đánh cá Bắc Ninh, cách hậu cứ Phú Lộc chừng ba trăm thước, cũng thuộc xã Hoà Minh quận Hoà Vang.
 
Tôi nằm dài trên cát, dưới bóng mát của hàng dương, nhìn ra Vịnh Đà Nẵng. Xa xa là những chiếc thuyền con đang hướng về chân trời, nơi có những chấm đen chập chờn trong khói sóng. Là tàu Hải Quân như lời đồn hay là ảo giác của hy vọng mong manh? Mặc kệ. Tôi nhắm mắt, thiếp đi trong tiếng sóng đều đặn vỗ bờ và tiếng rì rào nhè nhẹ như âm nhạc của hàng dương cao, rậm. Giấc ngủ ngắn nhưng thật say, không mộng mị, đủ lấy lại sức sau mấy ngày biếng ăn, mất ngủ. Nước biển mát lạnh làm tôi tỉnh hẳn. Trở ra theo con đường cũ, tôi lững thững vòng qua hậu cứ Tiểu Đoàn 37. Vừa tới cổng thì gặp Nguyễn Thanh Vân và Trung Sĩ Tuấn, làm phó cho tôi một thời gian, bây giờ là trung đội phó của Vân, cùng đi ra.
 
- "Về nhận bàn giao trễ vậy ông". Vân nói đùa. "Phải khao đó nha" !
 
Tôi hỏi thăm tình hình thì được biết hậu cứ chỉ còn cái vỏ. Mỗi ngày điểm danh cho có lệ. Chỉ có trực gác là còn quy củ nhà binh, mọi thứ khác, kể cả lệnh cấm trại và ứng chiến tại chỗ coi như đã không còn hiệu lực. Bằng chứng là hai chàng đang trên đường rời hậu cứ để ra Đà Nẵng.
 
Vân rủ tôi cùng đi. Tôi gật đầu. Cả ba chúng tôi đi tắt xuống khu gia binh, băng qua đám ruộng và khu nghĩa trang cũ của người Hoa để ra Phú Lộc. Chừng nửa tiếng sau là chúng tôi có mặt ngoài Ngã Ba Cai Lang. Trong những ồn ào của thành phố đang tuyệt vọng có ba chàng độc thân lang thang, hòa lẫn vào dòng thác ngược xuôi của đám rắn không đầu, của đám cọp không còn móng vuốt.
 
Một sư đoàn bộ binh còn nguyên vẹn, hơn một trung đoàn bộ binh từ Huế vào, Ba liên đoàn Biệt Động Quân, Một trung đoàn của Sư Đoàn 2, không kể hai lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở vùng Hà Nha và các đơn vị của các tiểu khu Quảng Nam và Quảng Tín cùng với những đơn vị và binh chủng khác đều đang tập trung tại Đà Nẵng.Nửa triệu người. Trong số đó có ít nhứt 30 ngàn tay súng thiện chiến. Vậy mà Đà Nẵng không có sức kháng cự và sắp rơi vào tay địch. Vì sao!?
 
Chúng tôi không có thì giờ và cũng không muốn nhức đầu vì những vì viễn ảnh đen tối nên tận dụng thời gian để lòng vòng phố xá. Vui được lúc nào hay lúc đó. Nên lại quán hàng lê la, lại cà phê, bi da cả buổi tối rồi vòng trở ra Ngả Ba Huế, tìm đến nhà Trung Sĩ Lộc, một thời cũng làm phó cho Vân. Trung Sĩ nhứt Lộc “ điếc “ niềm nở tiếp chúng tôi và bày ngay một chầu nhậu dã chiến để “ lãng quên đời “. Chưa có cuộc nhậu nào “ êm ái “ như lần này vì cả bốn người không ai buồn mở miệng nói, đùa như thường lệ. Chỉ rót cho nhau rồi yên lặng nâng ly. Cứ như vậy mà uống cho tới khi chị Lộc nhắc mọi người đi ngủ thì cũng đã gần sáng.(Còn tiếp)

Huy Văn 

No comments:

Post a Comment