Monday, April 21, 2014

Hãy Ngủ Yên Đà Nẵng Của Tôi Ơi ! - Trần Trung Đạo



Tôi viết bài thơ gởi về Đà Nẵng
Có còn chăng thành phố của bao giờ
Thuở học trò tôi viết mộng thành thơ
Thơ tôi đấy, sao buồn hơn nước mắt.
(Thơ Trần Trung Đạo)
Tôi viết về nhiều nơi, những nơi tôi đã đi qua và cả những nơi tôi một lần đặt chân đến.Tôi viết về Sài Gòn và những ngày bão lửa 75, về Hội An và những mùa lá đổ trước sân chùa, về khu kinh tế mới Đồng Xoài và những nơi mùa Xuân không còn trở lại.
Nhưng, ngoại trừ những dòng thơ của tuổi học trò nhiều sáo ngữ, mãi đến hôm nay tôi mới viết riêng một bài về Đà Nẵng. Tại sao? Đơn giản chỉ vì tôi muốn giữ riêng cho tôi trong giấc mơ về một thành phố dấu yêu, về những con đường hoa phượng đỏ và một thuở hoa niên đầy kỷ niệm.
Đà Nẵng của tôi, một thời được xem như là một Lebanon của Châu Á, thành phố chiến tranh, xô bồ, tang tóc. Nơi đó, tháng 3 năm 1965, bước chân của những người lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ để làm đầu cầu cho cuộc chiến tranh tốn kém nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Địa danh Đà Nẵng xuất hiện nhiều lần trong quân sử Mỹ, nhiều hơn cả những mặt trận lừng danh trong thế chiến thứ hai như Bulge, Ardennes, Midway v.v. Đà Nẵng với những doanh trại, bãi biển được gọi bằng tiếng Mỹ: China Beach, TienSa Camp, Monkey Mountain.
Đà Nẵng của tôi, nơi những buổi chiều của tuổi mười ba, tôi vẫn thường đứng nhìn những đoàn xe mang nhãn hiệu Sealand, RMK, GMC nối đuôi nhau mỗi ngày trên chiếc cầu màu đen mang tên của một viên tướng Thực Dân. Những chiếc chiến xa nặng nề, những khẩu đại pháo nòng dài được cất lên từ chiếc tàu lớn neo ngoài cửa biển Sơn Chà. Tiếng gầm thét của những đoàn phi cơ chiến đấu đang đáp xuống phi trường quân sự ngoài ngã ba Duy Tân. Tiếng nhạc, tiếng cười, tiếng chọc ghẹo, okie, hello, goodbye của những người lính Mỹ và những cô gái Việt Nam vào tuổi chị tôi, vọng lại từ những hộp đêm dọc bờ sông Bạch Đằng. Tất cả đã khơi dậy trong lòng tôi nhiều câu hỏi, nhiều băn khoăn và cả những tủi thẹn đầu đời của một đứa bé Việt Nam, xót xa cho số phận của một cây cổ thụ bốn ngàn năm đang biến thành cây chùm gởi. Tại sao? Tại sao lại là Đà Nẵng? Tại sao là Việt Nam quê hương tôi mà lại không phải một nơi nào khác?
Đà Nẵng của tôi, như định mệnh an bài, cũng là nơi an nghỉ của người lính Mỹ đầu tiên thuộc chiến hạm lừng danh Hoa Kỳ, USS Constitution. Không phải đợi đến 1965, khi các chiến hạm thuộc Đệ Thất hạm đội thả neo tại cửa biển Đà Nẵng để đổ bộ các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đầu tiên, nhưng từ hơn 120 năm trước, Đà Nẵng đã là một nơi hẹn hò đầy định mệnh giữa quân đội Việt Nam thời Thiệu Trị và Hộ Tống Hạm Hoa Kỳ đầu tiên của hải quân Mỹ dưới quyền của hạm trưởng John Percival. Theo các tài liệu còn ghi lại, năm 1845, chiến hạm USS Constitution của Hải Quân Hoa Kỳ, trên chuyến hải hành 2 năm vòng quanh thế giới, dừng lại cảng Đà Nẵng để xin cung cấp thực phẩm và nước ngọt. Cũng tại hải cảng lịch sử nầy, Hạm trưởng John Percival xin phép quan trấn thủ thành Đà Nẵng để chôn cất thủy thủ William Cook vừa qua đời, dưới chân Núi Khỉ nằm trong rặng Sơn Chà. Thậm chí ông còn “viện trợ” 2 Mỹ kim để lo phần hương khói. Tiếc thay, chỉ vài ngày sau đó, vì việc triều đình Huế bắt giam Giám Mục Dominique LeFevre, đã làm cho tang lễ thắm đượm tình nhân đạo của con người, biến thành một xung đột quân sự giữa hai quốc gia. Cuộc chạm trán ngắn ngủi năm 1845 rất ít người biết đến. Những viên đại pháo bắn vào lãnh hải Việt Nam, dù chỉ để đe dọa, cũng đã vô tình gây thương tích cho quan hệ đầy oan trái giữa hai quốc gia Việt Mỹ sau này


Đà Nẵng của tôi có khu Ngã Ba Huế nhộn nhịp, nơi tôi từ Hội An về thăm cô tôi những chiều thứ Sáu trong những chiếc xe khách hiệu Renault già nua màu xanh đậm. Tôi vẫn nhớ căn nhà nhỏ, ánh đèn dầu loe lắt, bàn tay xanh xao của cô khi dúi vào túi tôi những tờ giấy bạc được gói kín trong nhiều lớp vải. Đó là những đồng tiền khó khăn và vô giá mà cô dành dụm cho đứa cháu trai vào Hội An nương náu trong chùa ăn học. Tôi ra Đà Nẵng tìm cô vào đầu năm 1968. Nhà cô nghèo, con cháu lại quá đông. Nhiều đêm tôi phải ngủ đói trên căn gác của một trại cây ở hẻm 220 Hùng Vương, ngang hông phường Thạc Gián. Vài tuần sau, vì nhà đông đúc, cô đưa tôi đến sống với người anh họ và bà chị dâu vô cùng khó tánh ở Cỗ Mân, Sơn Chà. Chị dâu tôi khó tánh đến nỗi, chỉ sau một thời gian ngắn, tôi không chịu đựng được nữa nên lặng lẽ bỏ đi. Tôi vào chùa Viên Giác. Năm tháng như mây trời, bao độ hợp tan mang theo những giận hờn, thương ghét. Cô tôi đã về bên cõi khác nhưng lòng tôi sao vẫn nhớ vẫn thương. Trên xứ người, nhiều đêm không ngủ được, nhớ lại tiếng ho của người cô bịnh hoạn, tôi vẫn còn nghe nhức nhối như thuở mới về thăm. Chiến tranh và nghèo đói đã cướp đi bao thế hệ Việt Nam vô tội.
Đà Nẵng của tôi không phải chỉ là điêu linh tang tóc mà còn là thành phố cảng đẹp tuyệt vời. Những bờ biển uốn cong như mái tóc của người con gái Việt Nam đang đứng trông ra Thái Bình Dương bao la bát ngát. Từ eo biển mỹ miều đó những thương thuyền ngoại quốc đã đến thăm thành phố từ mấy trăm năm trước. Đà Nẵng của tôi có hàng phượng đỏ hai bên đường Bạch Đằng, đường Độc Lập với những chiếc ghế đá dọc bờ sông mang chứng tích của một thời học trò đầy kỷ niệm. Đà Nẵng của tôi có bãi Mỹ Khê (chứ không phải China Beach), với bờ cát trắng chạy dài và hàng dương vi vu theo gió, có bãi Thanh Bình với những chiếc ghe đánh cá đi về và cảnh chợ chiều nhộn nhịp. Những ngày hè oi bức, tôi và đám bạn vẫn thường ôm đàn ra ngồi dựa lưng vào những gốc dương liễu dọc bãi biển. Trong tiếng sóng từng nhịp vỗ vào bờ, chúng tôi cùng cất cao bài hát Ra Khơi như để cổ võ cho những chiếc thuyền đánh cá đang giong buồm ra biển. Tôi đâu biết vài năm sau, bạn bè tôi cũng lần lượt ra khơi như thế nhưng chẳng còn ai dám đến tiễn đưa.
Đà Nẵng của tôi có những hàng cây sao tình tự dọc đường Thống Nhất, nối từ bờ sông đi ngang qua Trường Nữ, nơi các cô cậu học trò Phan Châu Trinh, Phan Thanh Giản vẫn thường đứng đợi người trong mơ sau mỗi buổi tan trường. Những chiếc áo dài trắng thướt tha. Những mái tóc thề chấm vai thơ mộng. Những đôi mắt nai tơ đó đã từng là nguồn cảm hứng của nhiều nhà thơ xứ Quảng đa tình. Xin mời đọc vài câu thơ của nhà thơ Luân Hoán viết về các cô nữ sinh Đà Nẵng:
chiều chiều luồn chợ Vườn Hoa
trôi theo Đồng Khánh bám tà áo bay
mắt hồng liệng cái ngoắt tay
dắt qua Độc Lập dựa cây đèn đường
chập chùng xuân ảnh vải hương
ngó ai lòng cũng yêu thương tức thì
giả vờ châm thuốc nhâm nhi
nuốt thầm vóc đứng, dáng đi quanh mình.

(Đà Nẵng, thơ Luân Hoán)


Các cô nữ sinh của một thời thơ mộng tung tăng như những con bướm vàng trên đường Thống Nhất, Lê Lợi, Hoàng Diệu, Khải Định ngày xưa, đã không về nữa. Các cô đã ra đi, đã bỏ lại sau lưng mình hàng cây sao rợp bóng bên đường, bỏ lại những chiếc ghế vuông, những ly chanh muối, những quán chè. Các cô bây giờ đã lớn, đã trưởng thành. Nhiều cô đã là những bà mẹ tay bồng tay bế, để rồi, 17 năm sau ngồi nhớ lại năm mình 17 tuổi.
Mười bảy năm trời không thấy nhau
Aó xưa giờ chắc đã phai màu
Tôi đi góp lá ngàn phương lại
Đốt lửa cho đời sương khói bay.

(Thơ Trần Trung Đạo)
Và các cậu học trò cũng thế. Những chàng thanh niên với buồng phổi và trái tim chất đầy hùng khí của xứ địa linh nhân kiệt đã ra đi. Thế hệ trẻ Việt Nam trong thời chinh chiến và cả khi đất nước hòa bình, đã chịu đựng quá nhiều thiệt thòi mất mác. Nỗi bất hạnh lớn nhất của một đời người vẫn là bất hạnh không có tuổi hoa niên. Các cậu học trò ngày ấy ra đi, bỏ lại sau lưng những chiếc xe đạp, những quán Cà-phê Thạch Thảo, Thanh Hải, Ngọc Lan, những rạp hát Trưng Vương, Chợ Cồn, bỏ lại cây đàn guitar cũ kỹ và những bản tình ca chưa viết trọn trong sân trường. Để rồi nhiều năm, sau cuộc biển dâu, chinh chiến, gian lao, tù tội trở về. Trở về chỉ để thấy thành phố xưa nay đã đổi chủ và con đường xưa nay đã đổi thay tên. Tuổi thơ không bao giờ trở lại. Suối vẫn chảy, nước vẫn reo nhưng điêu linh tang tóc đã xua bầy nai tơ lạc đàn đi biền biệt, mất dấu đường về bên khe đá cũ.
Sau 1975, những bãi biển Mỹ Khê, Thanh Bình, Tiên Sa, Thanh Khê, Tân Thái, Mân Quang, Chợ Mai, Chợ Chiều, Non Nước, Nam Ô, v.v.., vẫn còn là điểm hẹn nhưng không phải là nơi hẹn hò của những cặp tình nhân, nhưng là nơi những người con Đà Nẵng hẹn nhau để bỏ quê hương mà ra đi. Xin đừng hỏi họ đi đâu, về đâu trong những đêm tối trời lầm lủi đó. Không ai biết chắc. Chỉ một điều họ biết là họ không còn chọn lựa nào khác hơn là phải ra đi. Không một người dân Quảng nào bỏ quê hương ra đi mà không đau xót. Xin đừng dán lên lưng, lên trán họ những nhãn hiệu theo Tây, theo Mỹ. Không. Người dân Quảng là những người yêu nước. Ông cha họ đã từng cười mà bước lên máy chém Thực Dân. Những cơn bão lụt tàn phá mỗi năm đã không làm họ bỏ làng mạc ra đi. Nạn hạn hán làm ruộng đồng khô cháy mỗi năm không buộc họ phải bỏ mồ mả tổ tiên ra đi. Sụp căn nhà này họ căm cụi xây trên nền đất cũ căn nhà khác. Trôi căn nhà này họ lại xẻ gỗ, lợp tranh xây lên căn nhà khác. Bao thế hệ đã sống và đã chết trên vùng đất cày lên sỏi đá đó. Nhưng chế độ mới, một chế độ nhân danh những mục tiêu tốt đẹp nhất trên đời đã buộc họ phải ra đi. Sự thôi thúc của tự do như tiếng gọi thiêng liêng của người cha già vọng về từ một nơi xa thăm thẳm. Và sẽ không ai biết, bao nhiêu người, trong số hàng ngàn, hàng vạn người bỏ Đà Nẵng ra đi, đã đến được HongKong, Philippines và bao nhiêu người không may mắn đã bị chôn sâu trong lòng biển, chết thảm thương trong bàn tay hải tặc, chết trong đói khát sau những tuần, những tháng lênh đênh ngoài biển cả.
Thưa Mẹ
Chúng con là người Việt Nam lưu lạc
Ngày ra đi không hẹn buổi quay về
Chẳng phải là sương mù sao khóc lúc đêm khuya
Chẳng phải gió sao đời là giông bão
Chẳng phải mây sao miệt mài trôi nổi
Chẳng phải là rừng sao héo úa mỗi tàn thu.
Mười tám năm
Chúng con sống trong âm thầm và chết giữa hoang vu
Biển cả, rừng sâu, non mờ, núi thẳm
Chúng con đi gót chân mòn vạn dặm
Ngơ ngác nhìn nhân loại, tủi thân nhau.

(Thơ Trần Trung Đạo)
Hai mươi tám năm, quá khứ có thể quên dần nhưng hiện tại thì sao? Xin đọc một bản tin của báo Thanh Niên phát hành tại Sài Gòn ngày 18 tháng 7 năm 2003: “2 nữ sinh10 tuổi, của Trường Trung Học Hòa Phước và 1 nữ sinh Trường Trung Học Phan Thanh Tài thuộc thôn Giáng Nam 1, xã Hoà Phước, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng, bị hụt chân chết đuối trong khi đi cào hến và bắt ốc kiếm tiền mua sách vở chuẩn bị vào năm học mới.” Sau 28 năm “độc lập, tự do, hạnh phúc”, tuổi thơ xứ Quảng vẫn còn phải bắt ốc hái rau kiếm tiền mua sách vở cho năm học mới, chẳng khác gì chuyện hai đứa bé Nghi Xuân Tấn Lực trong cổ tích Phạm Công Cúc Hoa ngày xửa ngày xưa. Tại sao và tại ai ? Phải chăng nên đổ thừa cho ốc hến?
Đà Nẵng của tôi, sau 1975, không còn thơ mộng nữa. Những câu ca dao đậm đà tình quê hương đất nước: “Ngó lên hòn Kẽm đá Dừng, thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi” đã được thay bằng những khẩu hiệu đấu tranh giai cấp chất chứa toàn chuyện oán thù. Những điệu hò khoan đậm đà hương vị Quảng Nam “Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm, rươụ hồng đào chưa nhấm đà say” đã được thay bằng những những đêm dài học tập, thảo luận, khuyến khích thầy cô, cha mẹ, anh em tố cáo lẫn nhau. Ánh trăng không còn là những dải lụa vàng Duy Xuyên đang trải trên dòng sông Hàn mỗi đêm Rằm, nhưng là những vết dao nghèo đói đang chém xuống một quê hương vốn đã chịu đựng nhiều bất hạnh.


Ngày cuối cùng của tôi ở Đà Nẵng như đoạn kết của một cuốn phim buồn. Tôi và cô bé, lý do cho những bài thơ tình học trò đầy sáo ngữ của tôi, ngồi trên chiếc ghế đá trên đường Bạch Đằng, nhìn sang hướng Sơn Chà.
- Anh sắp phải đi xa.
- Em biết.
- Sao em biết, anh chưa nói với em mà?
- Anh nói với em rồi. “Anh phải vô Sài Gòn học đại học. Học xong anh sẽ về quê, không đi nữa.” Em còn nhớ anh nói với em câu đó lúc mấy giờ, ngày nào và tại đâu nữa kìa.
- Không phải. Đó là chuyện hồi chưa “giải phóng”, bây giờ thì khác.
- Bây chừ anh tính đi đâu?
- Anh vượt biên. Nếu đi lọt, có thể anh sẽ qua Mỹ học.
- Bộ ở Việt Nam không có trường cho anh học sao. Em nghe nói Mỹ xa lắm, chắc là xa hơn Sài Gòn nhiều. Mùa hè làm sao anh về thăm quê được.
- Anh sẽ về nhưng chắc không phải mùa hè.
- Anh lại hứa.
Hai đứa nhìn ra sông. Chiếc phà An Hải vẫn mệt mỏi đưa người qua lại. Giọng hát buồn não nuột của anh thương phế binh cụt hai chân từ ngoài bến vọng vào: “Rừng lá xanh xanh cây phủ đường đi. Thành phố sau lưng ôm mộng ước gì. Tôi là người đi chinh chiến dài lâu. Nên mộng ước đầu nghe như đã chìm sâu”. Anh hát để tưởng nhớ bạn bè nhưng không biết rằng bạn bè anh đang lần lượt bỏ anh đi. Hàng phượng dọc bờ sông đã bắt đầu nở rộ nhưng không còn để “Mỗi năm đến hè ,lòng man mác buồn” nhưng là mùa chia tay vĩnh viễn, nát tan.
Nước sông Hàn lững lờ trôi mang theo dăm chiếc lá. Hai đứa ngồi im lặng, không biết phải nói gì. Nói gì rồi cũng chia tay. Em đơn giản, hồn nhiên và ngây thơ đến tội nghiệp. Em sẽ chẳng thể nào hiểu được tôi, và tôi cũng chẳng biết giải thích thế nào cho em hiểu. Trái đất của em nhỏ nhoi, bao bọc bởi những rặng tre xanh hiền hòa. Tâm hồn em là giòng sông mùa thu êm đềm, tĩnh lặng. Tâm hồn tôi thì hoàn toàn tương phản, trùng điệp núi đèo, ghềnh thác. Tôi sinh ra trong cuộc đời này để gánh hết khổ đau, để làm tên du mục đi lang thang trên chính quê hương mình. Và ngày mai, tôi lại sẽ bắt đầu hành trình du mục mới. Con nước trôi còn biết mình đang ra biển. Chiếc lá rơi còn biết cội quay về. Nhưng tôi không biết sẽ về đâu. Khi xa Đà Nẵng, nếu có một điều tôi đã không dám nói với em, đó là một lời xin lỗi mãi mười năm sau tôi mới viết thành thơ:
Tôi vẫn nợ em một lời xin lỗi
Nợ quê hương một chỗ đất chôn nhau
Nợ cha mẹ những nhọc nhằn khuya sớm
Tôi nợ tôi mộng ước thuở ban đầu.

(Thơ Trần Trung Đạo)
Hai mươi hai năm rồi tôi chưa về Đà Nẵng. Cô tôi đã qua đời. Bạn bè mỗi người một ngã. Cô bé ngày xưa đã có gia đình. Khuôn mặt thành phố mang nhiều thay đổi. Đà Nẵng thân yêu ơi, có còn nhớ đến tôi không? Căn gác đường Hùng Vương, căn nhà lá phía trong Ngã Ba Huế, cồn cát trắng ở Mân Quang, nơi tôi chôn dấu kho tàng tuổi thơ khốn khổ của mình, biết có còn nhận ra tôi, cho dù tôi trở lại. Và đêm nay, tôi ngồi đây, tưởng tượng một ngày về Đà Nẵng:
Có còn nhận ra tôi không?
Hỡi thành phố cũ
Những mái ngói xanh rêu
Bức tường vôi loang lỗ
Bài thơ xưa ghi dấu một phần đời
Có còn nhận ra tôi không?
Hỡi mơ ước tuổi hai mươi
Bờ bến cũ, ngậm ngùi thân sỏi đá
Tôi về đây, sông xưa, dòng nước lạ
Ngó mây trời mà khóc tuổi hoa niên
Có còn nhận ra tôi không ?
Hỡi cây đa cũ trong sân
Nơi tôi đứng những chiều thu lá đổ
Đừng hát nữa đa ơi, bài ca buồn vạn cổ
Tấm thân gầy đau nhức nhối trong đêm
Có còn nhận ra tôi không?
Hỡi những giọt cà-phê đen
Ly rượu đắng cho môi đời bớt nhạt
Khói thuốc bay như mây trời phiêu bạt
Trên con đường nay đã đổi thay tên
Có còn nhận ra tôi không?
Hỡi bè bạn anh em
Ai còn sống và ai đã chết
Ai ở lại lao đao, ai phương trời biền biệt
Giờ chia tay sao chẳng hẹn quay về
Có còn nhận ra tôi không?
Hỡi ghế đá công viên
Những mái lá che tôi thời mưa nắng
Từ nơi đấy trong đêm dài yên lặng
Tôi ngồi nghe sông núi gọi tên mình
Có còn nhận ra tôi không?
Hay tại chính tôi quên.

(Thơ Trần Trung Đạo)
Và biết đâu, nhờ chưa về, mà thành phố còn nguyên vẹn trong trái tim tôi, bởi vì, nếu tôi về thăm, Đà Nẵng chắc sẽ không còn nữa. Hãy ngủ yên Đà Nẵng của tôi ơi.

Trần Trung Đạo

Saturday, April 19, 2014

Nông dân Cẩm Thanh, cẩm Châu Hội An nuôi trâu phục vụ Khách Du Lịch


Nhiều nông dân xã Cẩm Thanh và phường Cẩm Châu, phố cổ Hội An (Quảng Nam) có thêm khoản thu nhập gần trăm triệu đồng một năm nhờ phát triển đàn trâu đáp ứng nhu cầu du lịch cho khách quốc tế.
+
Xuất phát từ nhu cầu du lịch "một ngày làm nông dân" ở phố cổ Hội An, năm 2010, ông Lê Viết Nhiên ở phường Cẩm Châu đầu tư phát triển đàn trâu lên đến 12 con vừa phục vụ sản xuất nông nghiệp vừa đáp ứng nhu cầu trải nghiệm đồng quê cho du khách nước ngoài. "Nhờ nuôi trâu làm du lịch, gia đình tôi có thêm khoản thu nhập khoảng 80 triệu đồng mỗi năm. Khách du lịch đến Hội An muốn trải nghiệm tour này ngày càng đông nên hiện có 5 hộ dân ở phường của tôi nuôi trâu (mỗi hộ nuôi trung bình 5 con) để làm du lịch", ông Nhiên nói. 
18-4-Anh-2-Nuoi-trau-lam-du-li-4015-3977
Ông Phạm Hò ở thôn 3, xã Cẩm Thanh, TP Hội An nuôi 3 con trâu làm du lịch. "Đây là năm thứ 3 gia đình tôi nuôi trâu làm du lịch. Nghề này cho thu nhập cao gấp 20 lần so với trồng lúa tại địa phương, lại khá nhàn hạ. Vào mùa hè, khách du lịch đông, có ngày đưa 5 đoàn khách đi tham quan đồng lúa, về làng rau Trà Quế vùng ven phố cổ Hội An, hướng dẫn họ cày, bừa, gieo sạ, gặt lúa..., cưỡi trâu chụp ảnh lưu niệm. Trung bình mỗi tháng gia đình tôi có thu nhập ít nhất 7 triệu đồng nhờ nuôi trâu làm du lịch", ông Hò kể.  
18-4-Anh-3-Nuoi-trau-lam-du-li-1664-9688
Nắm bắt được nhu cầu của du khách thích trải nghiệm, tìm hiểu văn hóa lúa nước Việt Nam, năm 2010, anh Trần Văn Khoa, Giám đốc Công ty Lữ hành Khoa Trần Hội An ECOTOUR đã đầu tư 340 triệu đồng đầu tư xe trâu bằng tre, cùng một số trạm nghỉ chân dân dã ở xã Cẩm Thanh; hỗ trợ, khuyến khích bà con nông dân nuôi trâu làm du lịch phát triển kinh tế gia đình. 
18-4-Anh-4-Nuoi-trau-lam-du-li-2729-5863
Sau 4 năm mở tour du lịch trải nghiệm đồng quê, anh Khoa không chỉ góp phần quảng bá bức tranh nông thôn Việt Nam thanh bình đến với bạn bè quốc tế, mà còn tạo thêm nguồn thu nhập đáng kể cho bà con nông dân ở phố cổ Hội An. 
18-4-Anh-5-Nuoi-trau-lam-du-li-2921-4597
Hiện tại mỗi ngày đơn vị lữ hành này tổ chức tour trải nghiệm đồng quê cho du khách khoảng 3 giờ vào hai buổi, sáng xuất phát từ lúc 7h30, chiều lúc 15h. Theo anh Khoa, một khi đồng quê không còn đồng ruộng, trâu, bò thì miền quê ấy chỉ tồn tại phần xác mà không còn hồn nữa.  
18-4-Anh-6-Nuoi-trau-lam-du-li-7712-6536
Những đứa trẻ đến từ Australia thích thú ngồi trên lưng trâu tham quan cánh đồng lúa ở xã Cẩm Thanh, TP Hội An. Ông Mick Ryan, du khách Australia nhận xét: " Tour trải nghiệm đồng quê ở đây thật tuyệt vời. Còn gì thú vị hơn khi được ngồi trên xe trâu thư thả trên đường làng ngắm nhìn đồng lúa đang chín vàng dưới tiết trời nắng đẹp. Đồng quê và người dân của đất nước các bạn thật gần gũi, thân thiện tạo cảm giác thanh bình cho du khách". 
18-4-Anh-7-Nuoi-trau-lam-du-li-9320-1856
Du khách say sưa chụp ảnh lưu niệm cho người thân ngồi trên lưng trâu tham quan đồng quê vùng ven phố cổ Hội An. 
18-4-Anh-9-Nuoi-trau-lam-du-li-9300-4200
Không chỉ ngồi trên xe trâu ngắm đồng lúa yên bình, nhiều du khách còn thích thú "vào vai" nông dân bì bõm trong bùn lầy cày ruộng. 
18-4-Anh-9-Nuoi-trau-lam-du-li-8886-8432
Một em bé người Australia thích thú cầm đuôi trâu bừa ruộng trên cánh đồng ở xã Cẩm Thanh. " Tôi thật sự ấn tượng với tour du lịch trải nghiệm đồng quê với loài trâu ở phố cổ Hội An. Đến với tour du lịch này, chúng tôi phần nào hiểu được văn hóa lúa nước mộc mạc mà độc đáo của Việt Nam. Trở về nước, tôi sẽ giới thiệu câu chuyện thú vị này với người thân, bạn bè",  bà Jess Stanaway (du khách Australia) chia sẻ.
Trí Tín

Tuesday, April 8, 2014

Tháng Tư - Thơ Quang Huỳnh



Tháng Tư trời đất như ngừng lại,
Đêm tối phủ dày đất nước tôi.
Bắc Nam rợn một màu tang trắng,
Xương máu tràn vương vãi núi đồi.
 
Tháng Tư nước mắt chan hòa máu,
Địa ngục trần gian hiện giữa đời;
Ma quỷ xéo dầy sông núi Việt
Ác đảng lên ngôi hận ngút trời !
 
Tháng Tư mẹ khóc con ly biệt,
Đứa chết vùi thây bờ quê hương;
Đứa còn xơ xác thân tù tội,
Nước mất, nhà tan lắm đoạn trường.
 
Tháng Tư chít vội đầu tang trắng,
Mái tóc thanh xuân của vợ hiền,
Người lính một đi không trở lại,
Máu đào tô sử Viêt thiêng liêng.
 
Tháng Tư máu lệ vùng kinh tế,
Dựng thời đồ đá lại nhân gian.
Cấm chợ, ngăn sông, thiêu sách vở;
Độc ác còn hơn chuyện Thủy Hoàng
 
Tháng Tư đoàn trẻ con ngơ ngác,
Bỏ lớp, bỏ trường lên xứ xa,
Cuốc xẻng cầm tay con lẫn mẹ,
Tháng ngày hiu hắt nhớ mong cha.
 
Tháng tư nước mắt không ngừng chảy
Oán hận dân tôi đã ngút trời;
Năm tháng dần qua đêm vẫn tối,
Lòng người tan tác biết sao vơi !
 
Tháng Tư bầy chó lên bàn độc,
Đem luật rừng xanh áp bức người;      
Súng đạn, còng tay làm kinh điển
Gieo rắt oan khiên, khủng bố đời !
 
Tháng Tư kể mãi không vơi chuyện,
Chẻ trúc Nam sơn viết chẳng cùng;
Biển Thái nghìn năm không gội sạch
Tội ác Cộng nô _ lũ độc trùng !
 
 
         QUANG HUỲNH
            

Monday, April 7, 2014

Câu chuyện ‘Thủy Chung’ của ngưồi vợ lính VNCH - Nguyễn Thuỳ



Xin thuật lại đây câu chuyện người viết được nghe từ lâu về hành động quả cảm của một người lính VNCH có chồng bị Cộng sản bắt đi tù ‘Cải tạo’ tại miền Bắc như sau :
          Vào khoảng năm nào, tôi không còn nhớ rõ (có lẽ 1983 hay 1984 gì đó), lúc còn ở tại VN (Sài-Gòn) , trong một lần đến chơi nhà người bạn thơ Trần Thiện Hiếu (hiện đang ở Sydney – Úc Châu), tôi gặp ông Hà Thượng Nhân  và một người nữa vừa được Cộng sản trả tự do sau thời gian bị tù gọi là ‘bị Học tập cải tạo’. Lúc bấy giờ ông Hà Thượng Nhân chưa biết tôi. Trong buổi hôm đó, tôi được nghe người cùng đi với ông Hà Thượng Nhân kể lại câu chuyện như sau :
          « Có một ông Thiếu Tá bị đưa đi tù tận miền Bắc. Lúc được cho phép gia đình tiếp tế, thăm nuôi, vợ ông Thiếu Tá ra thăm ông, thấy chồng tiều tụy, gầy guộc, ốm o, bệnh hoạn. Năm sau, Bà lại ra thăm nuôi chồng nhưng không được gặp. Bà hỏi thì quản giáo bảo là ‘không biết’. Bà nổi sùng lên bảo : ‘’Chồng tôi năm trước còn ở đây, sao bây giờ, các ông bảo là ‘không biết’ ?Như thế, một là chồng tôi bị chuyển sang một trại khác, hai là chồng tôi đã chết hoặc chồng tôi trốn trại bị bắn chết hay đã thoát rồi, như vậy, các ông phải biết chứ ?’’. Người quản giáo vẫn bảo : ‘’Chồng bà không có ở đây’’. Bà tức giận, lớn tiếng hỏi mãi, cuối cùng, quản giáo nói là ‘’chồng bà chết rồi’’. Bà lại hỏi : ‘’Chồng tôi chết, tại sao chết, chết thì chôn ở đâu ?’’. Do dự mãi, lát sau, quản giáo cho biết mộ chồng bà ở phía sau trại giam. Bà ta lân la hỏi các người tù đang đi lao động, được biết chồng bà bi đau rồi chết và chỉ chỗ chôn. Bà ta tìm đến mộ chồng, giở đồ tiếp tế bày ra, cúng chồng. Ðêm đó, Bà ở lại ngủ bên mộ chồng. Quản giáo ra đuổi bà đi thì Bà nói to lên : ‘’Sao các ông tàn nhẫn, không cho người vợ được ngủ bên mộ chồng mình sao ? Có luật pháp nào cấm việc đó không ?’’. Thấy Bà cương quyết quá, quản giáo đành làm ngơ. Sáng ra, Bà phân phát các thứ tiếp tế cho các bạn tù lao động gần đó rồi bẻ một nhánh cây cắm trước mộ chồng, nhổ một ít tóc treo vào nhánh cây đó. Năm sau, Bà lại lặn lội, đem theo thực phẫm tiếp tế ra thăm chồng lần nữa. Quản giáo bảo :‘’Chồng Bà chết rồi, sao Bà còn thăm nuôi, tiếp tế làm gì nữa ?’’. Bà bảo : ‘’Tôi thương, tôi nhớ chồng tôi, xin các ông cho phép tôi được ngủ bên chồng tôi lần nữa’’.Quản giáo ngạc nhiên, biết ngăn cản cũng khó vì ngại Bà lại lớn lời như trước nên đành chịu. Như lần trước  sáng ra, Bà dựng lại nhánh cây năm trước đã bị ngã xuống đất, cắt một nằm tóc buộc vào (nắm tóc năm trước đã bay đi hết, chỉ còn đôi sợi lẫn vào trong đất) rồi ra về. Năm thứ ba, Bà lại ra thăm nuôi chồng. Quản giáo hỏi : ‘’Ðã hai lần rồi, Bà còn ra thăm nuôi người chết sao ?’’. Bà bảo : ‘’Tôi còn trẻ, lần nầy, tôi ra  xin ngủ với chồng tôi lần thứ ba để ‘đoạn tang’ chồng, như thế cho trọn nghĩa phu thê, tôi mới có thể bước đi bước nữa sau nầy. Xin quản giáo cho cho phép tôi được toại nguyện, đây là lần chót…’’. Quản giáo có lẽ cảm động ít nhiều, đồng ý. Bà lại ra ngủ bên mộ chồng lần thứ ba, thắp nhang, đốt nến. Vào khuya, Bà mở túi xách, lấy một cái xẻng nhỏ cùng túi nylong, đào mộ, hốt ít xương cốt chồng, bỏ vào túi nylong, đổ formol vào rồi mang túi xác chồng lần ra lộ. Bị cán bộ bắt được, quản giáo bảo bà phải bỏ túi nylong đó lại. Bà bảo : ‘’Chồng tôi chết rồi, có gì các ông phải lo ngại. Tôi đem xương cốt chồng tôi về thờ cho trọn nghĩa thủy chung, điều nầy có gây khó khăn gì cho các ông đâu ? Tôi có lấy chồng khác  thì tôi cũng thấy trọn nghĩa với chồng trước và người chồng sau của tôi càng kính trọng tôi thêm’’. Quản giáo nhất định bắt Bà phải để túi nylong xác chồng lại rồi mới cho Bà đi. Bà tức tối, la lớn : ‘’Ðời thưở nhà ai, vợ hốt cốt chồng lại bị ngăn cấm ! Ðươc, tôi gởi túi xác chồng tôi nơi đây, các ông phải giữ kỹ. Tôi sẽ về Hà-Nội, gỏ cửa các quan lớn, hỏi cho ra lẽ. Có phép nào, có luật nào không cho vợ được giữ hài cốt của chồng mình, thờ phụng không ? Chuyện gì xảy ra thì các ông phải chịu trách nhiệm’’. Thấy sự việc gây cấn, biết người đàn bà nầy sẽ làm lớn chuyện, có thể không hay nên quản giáo đành để Bà đi nhưng cho một cán bộ đi theo Bà ra đến lộ, ngăn cấm tất cả mọi loại xe : xe đò, xe hàng, xe ôm, xe đạp, cả xe chở củi, không cho chở Bà. Thế là Bà cuốc bộ hàng chục cây số, len lỏi đến nhà ga Hàng Cỏ, hối lộ nhân viên trên tàu, leo lên xe lửa, len lỏi qua bao nhiêu toa, rốt cuộc sau bao ngày về đến Sài-Gòn ».
         Người viết có ghi lại sự việc nầy trong tập thơ ‘Việt Nam tân huyết sử diễn ca’ dài 7000 câu Song Thất Lục Bát, thuật lại hết mọi cảnh đời điêu linh của nhân dân Miền Nam do cuộc ‘Ðổi đời’ bi đát của Cộng sản, động chạm đến cả Hồ Chí Minh, Lê Duẩn Ðỗ Mười, Phạm Văn Ðồng, cả Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam,…Ðoạn viết về sự việc nầy trên cả trăm câu. Tiếc rằng, lúc vượt biên (cuối năm 1988), người viết không dám mang theo tập thơ viết tay gồm cả 4, 5 quyển tập học trò, sợ bị bắt thì chỉ tù rục xương hoặc bị đánh đập đến chết. Cũng rất tiếc, người viết không hỏi rõ người vợ lính đó cùng chồng tên gì, bị giam tại trại tù nào. Nay chỉ còn nhớ đôi đoạn ngắn như sau :
          -Lần hai, Bà ra ngủ bên mộ chồng :
                                                -Năm sau nữa, đội mưa đạp nắng
                                                 Nửa vừng trăng, nếp trán rưng rưng
                                                 Mồ hoang lại ngủ bên chồng
                                                 Tóc thề thêm một thủy chung đất trời…
          -Lần ba, có đoạn sau :
                                                -Năm sau nữa, rừng hoang núi vắng
                                                 Ðêm cùng ngày gió đắng mưa cay
                                                 Ðến bên quản giáo tỏ bày
                                                 Chồng tôi mộ đã xanh dày cỏ hoang
                                                Xin cho lần nữa đoạn tang
                                                Dù thêm bước mới, cũng tròn thủy chung….
          Sau nầy, năm 2005, trong quyển ‘Khung Trời Hướng Vọng’  viết về thơ 16 tác giả hải ngoại, lúc viết về thơ Mạc Phương Ðình nói đến những khổ cực, đắng cay của người vợ trọn nghĩa cùng mình, có đoạn :
                                                 ‘’Xin được viết trên lá rừng vạn dặm
                                                   Một chữ tình chung nhất để yêu em
                                                   Dòng suối nhỏ mang lá về với biển
                                                   Ðể nghìn năm tình ấy vẫn mênh mông’’…
                                                                                       Mạc Phương Ðình
          Nhân đoạn thơ đó và nghĩ đến những gương phụ nữ anh hùng suốt thời gian qua, tôi đã viết : ‘’Rừng vạn dặm, biển mênh mông từ nay mang chở hàng hàng chiếc lá thủy chung, ân tình, bất khuất của nữ lưu người Việt cạnh bao đấng hùng anh trong sa cơ vẫn không khuất nhục, đầu hàng. Cho dù ‘vô danh’, khiêm nhượng, cho dù không được lịch sử chép ghi nhưng những gương sáng đó vẫn được đời đời gìn giữ : ‘sử văn lỗi chép, sử tình vẫn ghi’. Còn có những người nữ như thế, còn những người nam nhi như thế, dân tộc Việt Nam miên viễn vẫn hùng anh và lịch sử sẽ lại sớm huy hoàng sau giai đoạn bị đẩy chìm vào tăm tới’’ (‘Khung Trời Hướng Vọng’, trang 355).
                                                                                                                                   Nguyễn Thùy