Các
định nghĩa trước nay thường chưa mấy rõ ràng và thường lẫn lộn giữa Văn minh và
Văn hóa, càng định nghĩa càng thấy mối quan hệ giữa Văn minh, Văn hóa khiến
nghĩ rằng hai vấn đề hầu như không tách rời nhau. Xin không nêu một số định
nghĩa đó nơi đây.
Văn
Minh. Theo người viết, Văn minh chỉ tất cả mọi thành tựu của con người và loài
người do trí thông minh, cái Sống của thể xác và của ý thức qua cái ‘Biết Làm’
(le Savoir faire) nhằm ‘cách vật trí tri’ nghĩa là hiểu biết và nắm bắt mọi qui
luật vận hành của tự nhiên và của thế giới bên trong con người cùng vận hành của
xã hội, từ đó, phát huy óc sáng tạo đưa đến chinh phục, khai thác , cải biến
thiên nhiên và xã hội, tạo thêm những nguồn năng lượng cần thiết cho cuộc sống
qua những phát minh, sáng chế phương pháp, dụng cụ, phương tiện khiến cuộc sống,
cuộc đời ngày càng đầy đủ, thuận tiện, thoải mái hơn. Một người đơn độc có thể
văn minh như Robinson trong rừng sâu biết làm nhà trú mưa nắng, biết làm hàng
rào, biết làm cung tên chống lại thú vật,…Nhưng cái Văn minh đơn độc đó khó
lòng tiến bộ, khó lòng tiến lên mức độ cao hơn. Chỉ khi sống thành xã hội, do cạnh
tranh giữa nhau mà Tiến bộ, Văn minh mới luôn luôn tiến triển, mói có Văn hóa để
Văn minh và Văn hóa cùng đun đẩy nhau dẫn về Tiến hóa..
Văn
hóa, theo người viết, là trạng thái sinh hoạt của một xã hội theo cái ‘Biết sống’
(le savoir être) trong việc tổ chức cuộc sống chung hay cuộc đời (môi trường đồng
loại) giữa người và người thuận hảo, an lạc, thiện lương, hạnh phúc trong việc
kết hợp mọi thành tựu của cái Biết Làm về tất cả mọi lãnh vực phù hợp với những
quan điểm về Vũ trụ quan, nhân sinh quan, xã hội quan có tính cách truyền thống
qua lịch sử của một cộng đồng chủng tộc hay của một dân tộc, quốc gia.
Văn
Minh do cái Biết Làm (le Savoir faire) , được đun đẩy bỡi hai Cái Sống
Thân Xác và cái Sống của Ý Thức để phục vụ hai cái sống đó mỗi
ngày thêm cao, thêm đầy đủ, sung mãn.
Văn
Hóa do cái Biết Sống (le Savoir être, le Savoir vivre ensemble), được đun
đẩy bỡi cái Sống Vô Thức để thăng hoa hai cái Sống Thân Xác và Ý
Thức
Văn
minh và Văn hóa, theo người viết, khác nhau ở những điểm sau :
1)
Văn minh có tính cách lịch sử. Văn minh chỉ sự tiến bộ của cái ‘Biết Làm’ về mọi
mặt.
Cách
thức’canh tác cơ giới’ ngày nay không chịu ảnh hưởng cũng như không bắt nguồn từ
chế độ canh tác thủ công ngày xưa tuy cùng mục dích là sản xuất ra lương thực,
của cải. Cách thức mua bán qua Internet ngày nay không do từ lối buôn bán trực
tiếp trao đổi hàng hóa giữa người bán và người mua như ngày trước. Cả hai lối sản
xuất và thương mãi trên do cái ‘Biết Làm’ chỉ có tính cách nói lên tiến trình
phát triển kinh tế (sản xuất, phân phối, tiêu thụ) qua diễn trình lịch sử chứ
không có tính cách truyền thống.
Cũng
thế, quan niệm ‘trái đất tròn, quay quanh nó và quanh mặt trời’ không bắt nguồn
và cũng không liên hệ gì với quan điểm trước kia cho rằng trái đất vuông, đứng im
và mặt trời quay quanh trái đất cùng trái đất là trung tâm vũ trụ’. Cả hai chỉ
nói lên lịch sử diễn tiến của tri thức con người chứ không hệ tại nhau, chi phối
nhau .
Sở
dĩ cái ‘Biết Làm’ hay nói chung cái ‘Biết về mặt Khoa học, Kỹ thuật, cái Biết
thuần lý’ dù cao hay thấp, chỉ có tính cách lịch sử mà không có tính cách truyền
thống vì đấy là cái ‘Biết của trí thông minh’, cái Biết do trí năng nhiều khi
tiệm tiến nhưng nhiều khi ‘nhảy vọt’ có thể xóa hẳn cái Biết cũ, đoạn tuyệt hẳn
với quá khứ.
Ngày
nay, tại các xứ văn minh, không còn cách giả gạo bằng chày mà dùng máy xay lúa,
không còn từng người gặt lúa mà gặt bằng máy gặt. Cách giả gạo bằng chày, gặt
lúa bằng sức từng người và cách giả gạo, gặt lúa bằng máy, không liên hệ với
nhau về mặt truyền thống mà chỉ liên hệ về mặt phát triển của tri thức trong
lao động thôi. Sự việc đi tiểu, đi tiêu nơi bồn cầu vệ sinh trong nhà không bắt
nguồn cũng không liên hệ gì với lối ‘đái đường, ỉa đồng’ trước kia. Những khám
phá, phát minh trong hậu bán thế kỷ XX đến nay đã phũ nhận, loại trừ một số
quan điểm khoa học các thế kỷ trước, mở ra một trạng thái văn minh khác trước,
chứng minh thêm nhận định trên. Chẳng hạn, sự phát minh ra máy điện toán
cá nhân khiến con người không còn sử dụng máy đánh chữ cơ khí nữa.
Nhìn chung, Văn minh chỉ mức độ tiến bộ của tri thức con người qua diễn trình lịch
sử, mục đích nhằm cải tiến cái sống về mặt cơ năng ngày càng đầy đủ, tiện nghi,
sung mãn hơn.
2)
Văn hóa vừa có tính lịch sử vừa có tính cách truyền thống :
Như
đã nói, Văn hóa phục vụ cái ‘Biết Sống’ thể hiện nơi cái ‘Biết sống chung giữa
nhau và cho nhau’ qua cái ‘Biết cư xử, đối đãi nhau’ giữa người và người.Văn
hóa chỉ nẩy sinh trong môi trường đồng loại nghĩa là lúc con người biết kết tập
nhau thành xã hội. Một Robinson đơn độc nơi rừng sâu, không sống cùng đồng loại
với mình nên chỉ có Văn minh mà không có Văn hóa.
Văn
hóa có tính cách lịch sử lẫn tính cách truyền thống vì được thể hiện qua tiến
trình lịch sử vừa chịu ảnh hưởng vừa kế thừa từ quá khứ, trở thành phong tục, tập
quán, nề nếp chung cho cả cộng đồng xã hội trong cách thức giao tế, tiếp xúc, đối
đãi giữa người và người. Cái ‘nếp sống chung’ đó có căn rể từ những quan niệm
tiềm ẩn về vũ trụ, nhân sinh, xã hội mỗi lúc một mạnh mẽ và cũng có thể thay đổi
ít nhiều qua lịch sử.
Chúng
ta biết rằng ‘dân tộc’ là sự kết hợp số đông người có cùng những điểm tương đồng
: huyết thống, ngôn ngữ, màu da, cùng quan niệm về tín ngưỡng,…quây quần nơi một
địa bàn sinh hoạt, chung sức nhau, bảo vệ nhau, cùng phát triển mọi khả năng, tạo
lập cuộc sống chung cho nhau. Tất cả những điều nầy tạo nên những đặc điểm văn
hóa riêng từng dân tộc. Việc tang ma, chôn cất, thờ phượng ông bà, cha mẹ lúc
qua đời (cái biết ‘xử thế’ với người chết) chẳng hạn, mang tính truyền thống vì
được kế thừa từ quá khứ, vừa mang tính lịch sử vì được thực hiện khác nhau ít
nhiều qua từng giai đoạn lịch sử và theo từng dân tộc (chôn cất hay thiêu xác,
làm lễ tại nhà thờ, nhà chùa, để tang lâu hay mau, chôn riêng hay cùng chôn ở
nghĩa trang, làm kỵ giỗ hay chỉ viếng thăm nghĩa trang để tưởng niệm,…). Các chế
độ hôn nhân ‘độc hôn’(mộtvợ,monogamie) hay ‘đa hôn’ (polygamie), quan niệm ‘hôn
nhân trong dòng họ’ hay ‘ngoài dòng họ’, quan niệm thờ cúng tiền nhân, hiếu thảo,
đạo nghĩa vua tôi, cha con, vợ chồng, thầy trò, anh chị em, bạn bè,…do ‘truyền
thống’ đạo đức, luân lý khác nhau giữa các dân tộc. Rõ ràng nhất, ta được thấy
nơi tình yêu trai gái và vị trí người đàn bà trong xã hội. Bên Ðông phưong, chịu
ảnh hưởng của Luân lý Khổng Mạnh, với quan niệm ‘trọng nam khinh nữ’, ‘nam nữ
thụ thụ bất thân’, người phụ nữ không cần phải học hành nhiều, chỉ giữ bổn phận
thừa gia, nội trợ, sinh con đẻ cái cho gia đình người trai, luôn bị gò bó trong
‘tam tùng, tứ đức’, chuyện hôn nhân phải do ‘cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy’,… ;
trong lúc Tây phương, người con gái được tự do sống theo ý mình hơn và được hưởng
mọi quyền lợi như nam giới.
Dù
có được thay đổi ít nhiều và khác nhau từng dân tộc, tất cả mọi liên giao tâm
tư, quyền lợi, bổn phận,… đều luôn liên hệ với truyền thống. Những tín điều,
nguyên tắc đức lý, những ‘từ bi, bác ái, những nguyên tắc pháp lý bảo đảm công
bình, bình đẵng giữa người và người dù có khác nhau ít nhiều giữa các dân tộc
là những điều kiện phát sinh từ cuộc sống xã hội (cuộc đời) để duy trì và bảo đảm
cuộc sống chung thuận hòa, êm đẹp vì con người không sống đơn độc, riêng mình
mà luôn cần đến kẻ khác, nghĩa là cần đến xã hội . Và vì sống thành xã hội nên
phát sinh những tập quán, phong tục, nề nếp lễ nghĩa được gìn giữ và tiếp nối,
truyền đạt qua từng thế hệ. Chính tính cách truyền thống của cái ‘Biết cư xử’,
cái ‘Biết sống chung’ nầy tạo nên cái ‘căn tính, cái lý lịch’ của từng dân tộc
mà mỗi cá thể trong cộng đồng dân tộc mang nặng nơi mình. Người ta nói đến cái
‘hoài nghi lý lịch’, cái ‘khủng hoảng lý lịch’ (le doute identiaire, la crise
identiaire) là do sự đánh mất truyền thống về cội nguồn văn hóa.
Sở
dĩ cái ‘Biết sống’, nói rõ hơn là cái ‘Biết sống chung’, cái ‘Biết xử thế’,
ngoài tính cách lịch sử, còn có tính cách truyền thống vì đấy là cái ‘Biết của
Tâm năng’, nói theo tiếng Việt là cái ‘Biết của tấm lòng’. Cái Biết của Tâm
năng (énergie psychique) khác với cái Biết của Thể năng (énergie physique) và
Trí năng (énergie intellectuelle). Vì đấy là cái Biết của Tâm, của Thánh linh tức
phần Vô thức của Thượng Ðế, của Thể tính Như lai, của Ðạo thể. Cái Biết của
Tâm, của Thánh linh luôn là thế, là vậy, như nhiên, đồng nhiên, có thể cách thức
biểu hiện có khác nhau tùy theo hoàn cảnh, tùy theo từng giai doạn lịch sử (do
thời dại, do tác động của cái Biết làm) nhưng tựu trung không biến dạng, biến
thể (cũng như cái ăn, cái uống là điều kiện tất nhiên, tất yếu, thường hằng cho
bất kỳ ai, bất kỳ dân tộc nào, bất kỳ ở đâu, thời nào, khác nhau ở chất ăn, chất
uống cùng cách chế biến, sử dụng tùy từng nơi, từng lúc). Cái Tâm hay Thánh
linh không phải im lìm, bất động nhưng cũng không biến đổi mà chỉ chuyển dịch từ
khởi nguyên đến chung cục của dòng Tiến hóa. Phải đứng trên dòng Tiến hóa mới
nhận ra dòng chuyển dịch của Tâm, của Thánh linh. Ta thường nghe than thở rằng
sao tôi ăn ở hiền lành, thánh thiện, chẳng hề làm hại ai mà sao cứ khốn đốn,
truân chuyên, đày đọa, trong lúc bao kẻ ác đức lại hạnh phúc tràn trề, giàu
sang, uy quyền,… đủ cả. Có thể giải thích sự việc nầy theo chữ ‘Duyên’ nơi nhà
Phật, nhưng thiết tưởng chưa thể thật đúng (xem chương nói về Phật giáo).
d)
Hai quan điểm nhận thức về Tự nhiên (la Nature):
Ði
xa hơn chút, Văn minh (cái Biết làm) và Văn hóa (cái Biết sống) có căn rể từ
hai quan điểm nhận thức về Tự nhiên, về Vũ trụ.
1)
Quan điểm Vật linh (animisme) : Quan điểm nầy cho rằng mọi sự, mọi vật, nói
chung là vạn hữu, là thiên nhiên gồm tất cả mọi hiện thể vật và người đều mang
sẵn nơi mình một ‘nguyên lý nội tại’ (principe interne) thường được gọi là
‘linh hồn’ làm nguyên nhân cho tất cả mọi hiện tượng, mọi sinh hoạt tâm lý,
sinh lý để vừa tác động chính mình vừa tác động đến bên ngoài, từ đó vừa tạo
tác, duy trì cuộc sống riêng mình (cái Biết Làm) vừa tạo điều kiện bảo tồn cuộc
sống của mọi thứ khác để tất cả cùng được sống chung với nhau, cho nhau (cái Biết
Sống chung). Ðiều nầy được tìm thấy nơi các triết thuyết xưa nay, cho rằng
thiên nhiên là một ‘sinh thể’ (corps vivant) không chỉ mang ‘sự sống’ nơi mình
mà còn mang chứa một ‘trí thông minh’, một cái ‘Biết Làm’ để tác động với bên
ngoài vừa nuôi dưỡng, vừa duy trì vừa phát triển cuộc sống mình vừa, qua đó,
giúp mọi thứ khác cùng sống chung vói mình như Cây cối tạo nên dưỡng khí cho sự
sống của mọi vật khác. ‘’Mỗi chiếc cây, mỗi con vật đã tham dự với tâm năng
mình vào tiến trình sống của linh hồn vũ trụ ; với trí thông minh (trí năng)
tham dự vào sinh hoạt tinh thần của mình và với tính cách cơ năng nơi mình vào
tổ chức thể chất mình’’ (1) .
Do
đó, một số thần thoại và triết thuyết xem Thiên nhiên là ‘Người Mẹ’ -Mẹ Thiên
nhiên (Mère Nature)- đã sinh thành, nuôi dưỡng, bảo bọc, chở che là làm phát
triển mọi ‘đứa con’ của mình (tức vạn hữu). Cũng do đó nên mọi từ ngữ chỉ Thiên
nhiên nơi nhiều dân tộc thường dùng theo ‘giống cái’ từ ‘phusis’ tiếng Hy Lap,
‘natura’ tiếng La Tinh đến ‘die Natur’ tiếng Ðức, ‘Nature’ tiếng Pháp (2) . Bên
Ðông Phương, Lão Tử cũng bảo : ‘’Có tên là Mẹ vạn vật’’ (Hữu danh vạn vật chi Mẫu
- Ðạo Ðức Kinh). Không rõ chế độ ‘mẫu hệ’ có bắt nguồn từ khái niệm nầy không ?
Dần dần, căn cứ vào sự sinh đẻ của sinh vật nơi cõi hiện tượng, người ta cho rằng
chỉ riêng yếu tố nữ không đủ nên phải có yếu tố nam (3) . Có lẽ do sự việc nầy,
người ta hình dung (bằng ý niệm) một đấng Hóa Công, một vị Thượng Ðế từ giống
cái sang giống đực rồi sang ‘vô tính’ hay ‘trung tính’ (neutre) đã tạo nên cả
hai yếu tố Nam Nữ. Nhiều nhà khoa học cho rằng vị Thượng Ðế đó, nếu có, là vị
‘Thượng Ðế Toán học’ (Dieu mathématique), vị ‘Thượng Ðế Tiến hóa’ (Dieu
évolutionniste) cũng như trong Văn chương, nhiều nhà thơ, nhà văn quan niệm một
‘Thượng Ðế thi tính’ (Dieu poétique).
Bên
Ðông Phương, từ ngàn xưa, cho rằng ‘Vạn vật đồng nhất thể’ và ‘chúng sinh vốn đồng
đẵng’. Cái Thể đó hàm chứa nơi mình hai yếu tố ‘Ðực, Cái’ tức ‘Dương và Âm’, cặp
Lưỡng Nhất theo Ðạo học Ðông Phương để sinh thành mọi thứ. Người Việt Nam thường
bảo ‘Cha Trời, Mẹ Ðất’ và ‘Ðạo Ông Bà’ bao gồm cả hai yếu tố ‘Nam, Nữ, Ðực,
Cái, Âm, Dương’ (cơ sở nơi hai từ Ông, Bà). Chính cái ‘yếu tố nội tại’ nầy được
kế thừa, tiếp nối qua các thế hệ nên mang tính cách truyền thống nơi từng hiện
thể và nơi toàn thể cộng đồng.
Quan
điểm ‘Vật Linh’ nầy, theo người viết, đã tạo nên Văn hóa dù có đưa dẫn đến nhiều
mê tín, dị đoan, đến Ðạo Phù Thủy (chamanisme),…Quan điểm nầy có thể xem là cơ
sở tạo nên Tôn giáo cùng là suối nguồn của tính lãng mạn nơi con người và
khuynh hướng trữ tình trong Nghệ thuật. Theo quan điểm Vật linh, thiên nhiên
hay vũ trụ hiện tượng phát sinh từ một Nguồn gốc và huớng đến một Cứu cánh nào
đó. Vì thế, sự sống, cuộc sống của mỗi hiện thể vật và người mang chứa một ý
nghĩa và hướng đến một cứu cánh giống như mỗi hoạt động của ta nhằm đến một mục
đích. Dân tộc Việt Nam chúng ta từ thời lập quốc đến nay hầu như theo khuynh hướng
nầy.
2)
Quan điểm Cơ giới : Quan điểm nhận thức thứ hai về Tự nhiên là quan điểm Cơ giới
(mécanique) trong Khoa học. Các khoa Vũ trụ học (Cosmologie), Sinh học
(Biologie), Sinh Hóa học (Biochimie), Vật Lý học (Physique), Di Truyền học
(Génétique), cùng với Kỹ Thuật học (Technologie), Kinh Tế học (Économie) lại
cho rằng Thiên Nhiên (la Nature) chỉ là khối vật chất ù lỳ, bất động, chẳng có
tính cách gì được gọi là sự sống, là cứu cánh, mục đích, giá trị tự thân. Thiên
nhiên chỉ là nguồn tài nguyên cho con người khai thác, vận dụng ; giá trị của
thiên nhiên là do con người gán cho tùy theo lợi ích mà con người thỏa măn nhiều
hay ít nhu cầu của đời sống và tùy thuộc vào mọi qui luật cạnh tranh thị trường
về mặt kinh tế.
Những
lối gọi ‘Mẹ Thiên nhiên’, ‘Cha Trời, Mẹ Ðất’,…chỉ là tưởng tượng, những hình ảnh
bóng gió, ẩn dụ trong thơ ca, thuộc phần cảm tính của nghệ sĩ và tôn giáo chứ
không có thật, và dẫn đến việc thờ phụng, sùng bái thiên nhiên một cách vô lý,
ngăn chặn mọi hoạt động của tri thức con người.
Quan
điểm ‘cơ giới’ nầy không hẳn mới có gần đây mà đã có từ xưa kể từ lúc con người
biết sử dụng lửa, biết thuần hóa một số thú vật, biết trồng đôi cây trái đầu
tiên, biết chế tác dụng cụ bằng đá, bằng cây rồi bằng sắt. Một số thần thoại đã
nói đến những anh hùng chinh phục các sức mạnh thiên nhiên như truyện thần
Horus thắng tê giác, thần Apollon thắng con rắn Python, truyện thánh George
đánh bại con rồng,…Việt Nam ta cũng có những truyện tương tự như Lac Long Quân
thắng các yêu tinh. Quan điểm nầy thực sự mạnh mẽ từ thế kỷ XVII. Rồi cũng do
óc tưởng tượng của người nghệ sĩ mà cái Biết Làm của con người càng được kích
thích để thêm bao truyện nói lên khả năng hăm hở chinh phục, khai thác thiên
nhiên như truyện Bác sĩ Faust, truyện Frankenstein hay ‘thần Prométhée hiện đại’
của Mary Shelly (1818) mào đầu cho ham muốn và khả năng của con người chẳng
thua gì thần thánh. Ngay cả Kinh Thánh Ki-Tô giáo, trong sách Sáng Thế của
Moise, khi viết ‘’Hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển,
loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất’’ cũng đã nói lên
ý muốn của Thượng Ðế bảo con người phải quản trị thiên nhiên. Rồi bao nhiêu nhà
khoa học, kỹ thuật học cùng các ý thức hệ Duy vật và các chủ trương Kinh tế duy
nghiệm, duy thực, duy lợi càng chứng tỏ khả năng siêu đẵng của con người, đẩy
lùi quan điểm Vật linh trước đây để chỉ còn tin tưởng vào ‘quyền lực thống trị’
của con người đối với thiên nhiên, vạn vật. Ngày nay, với khoa Di Truyền học,
Sinh học, Thần Kinh học,…, người ta cho rằng mọi khả năng con người về mặt tâm
linh (tâm năng) không là những gì thiên phú, thiên bẫm (inné) mà cũng chỉ là do
hoạt động của các tế bào thần kinh qua tác dụng của các gène di truyền . Khoa
‘Sinh sản vô tính’, khoa sinh đẻ trong ống nghiệm, khoa tạo nên những ‘những bé
thiên tài’ (bébés einstein) cùng việc chế tạo những ‘người máy tự động, biết
suy nghĩ’, chế tạo những ‘bộ óc nhân tạo’, chế tạo ra những tế bào từ các ‘tế
bào gốc’ (cellules souches) càng chứng tỏ thêm khả năng con người và chứng tỏ
thiên nhiên chỉ là khối vật chất vô tri thuộc quyền khai dụng của con người cho
cuộc sống con người thôi.
Nhưng
rồi, Khoa học, Kỹ thuật học cùng các chủ trương Kinh tế duy thực, duy lợi trên,
càng tiến đến đỉnh cao, do cái Biết Làm tạo nên nền Văn minh duy lý cao độ, lại
phải đối diện với bao vấn nạn về mặt ý nghĩa, cứu cánh cuộc sống, cuộc đời, về
nhân quyền, nhân phẫm, về Tự do, về giá trị con người nghĩa là những vấn đề thuộc
Văn hóa. Thêm nữa, tiến bộ của Khoa học, Kỹ thuật cũng khiến bao nhà khoa học
rùng mình trước những thành tựu có thể dẫn đến hủy diệt con người và cả nhân loại
như những vũ khí tối tân sát hại khối lớn sinh linh trong nháy mắt cùng sự
‘băng hoại’ của môi trường sống.
Văn
minh càng tiến thì hầu như Văn hóa lại bị đe dọa. Từ những vấn nạn đó, con người
phần nào lại muốn trở lại với thiên nhiên với những môn học mới như ‘Sinh đức
lý học’ (tạm dịch Biothétique), ‘Sinh thái học’ (Écologie),…cùng bao nhiêu
phong trào đòi hỏi nhân quyền, lên án diệt chủng càng lúc càng lên cao.Liệu
‘’nhân quyền tức quyền sống của con người sẽ chỉ còn và hoàn toàn được hiểu
cũng như được biện minh bằng ‘quyền của lợi tức’ (droit du profit) và quyền con
người được thay thế bằng ‘quyền của các di thể’ cùng lúc Tự do của con người
không còn liên hệ gì đến nhân loại mà chỉ liên hệ đến tính cách riêng biệt của
khối Nhiễm sắc thể’’ như nhà Bác học kiêm Di truyền học Pháp Axel Kahn đã bảo
(4) .
Trước
hai quan điểm ‘Vật linh’ và ‘Cơ giới’ đó, nhà Sinh vật học người Anh Rupert
Sheldrate, chuyên biệt về khoa ‘Sinh hóa học’ và ‘Sinh học về tế bào’ (biologie
cellulaire) , qua tác phẫm ‘The Rebirth of Nature’ đã nói đến‘Sự trở lại với Thiên
nhiên nơi Khoa học’ (La Renaissance de la Nature en Sciences), phối kết mọi
quan điểm khoa học lâu nay, cho rằng : ‘’Mọi cơ chế sinh thể không chỉ thừa hưởng
di thể mà thừa hưởng cả những diện trường cộng hưởng. Những di thể được kế truyền
theo cách thức thể chất bỡi tổ tiên và cho phép sinh sản những kiểu mẫu riêng
biệt của các phân tử protéines ; những diện trường cộng hưởng lại được thừa kế
không theo cách thể chất (phi thể chất) mà bỡi phản hưởng cộng hưởng, không chỉ
với tổ tiên mà còn với mọi phần tử cùng chủng loại. Cơ chế sinh thể đang phát
triển hoà điệu với các diện trường cộng hưởng của chủng loại mình và do đó rút
chất liệu từ một ký ức tập thể’’ (5) .
Quan
điểm nào cũng có phần đúng. Tuy nhiên, chỉ thiên về một quan điểm thôi thì,
theo người viết, khó có thể có Tiến hóa đúng nghĩa.
Quan
điểm Cơ giới do cái Biết Làm làm nẩy sinh Văn minh nhưng Văn minh chưa hẳn là
Văn hóa mặc dù thành tựu của văn minh có được xã hội sử dụng để Văn hóa thêm nẩy
nở nghĩa là Cuộc sống chung (cuộc đời) thêm dễ dàng, đầy dủ, tốt đẹp hơn. Sự việc
con người đổ bộ lên Cung Trăng là sự việc của Văn minh chứ chưa là sự việc Văn
hóa. Quan điểm Vật Linh chú trọng cuộc Sống chung nhưng nếu chỉ thể sẽ đưa xã hội
vào trạng thái tĩnh chỉ, tịnh trí khiến cuộc sống trì trệ, tù đọng. Ðấy là tình
trạng các xã hội Ðông phương, chú trọng việc tu chứng tức phát huy cái sống ‘nội
tâm’ mà lảng quên cái ‘Biết Làm’ khai thác khả năng con người trong việc tạo
tác những nguồn năng lượng mới cho cuộc sống cơ năng. Nơi Ðông phương, ta thấy
rất nhiều bậc đạo gia, thánh nhân, hiền nhân, bồ tát, quân tử nhưng lại ít nhà
thông thái, nhà khoa học,…trong việc nghiên cứu, tìm tòi, khai phá ngoại giới.
Chúng ta ‘tiến bộ, văn minh’ do cái ‘Biết Làm’ ; chúng ta có ‘Văn Hóa’
do cái ‘Biết Sống’.
Chúng
ta đang sống trong thời đại mà cái ‘Biết Làm’ tức Văn minh tiến những bước thần
tốc trong lúc cái ‘Biết sống chung’ hầu như không theo kịp.
Dĩ
nhiên, không ai nghĩ phải cản ngăn những tiến bộ của cái Biết Làm vì như thế là
hạn chế Tự do trong đó có cái Tự do tìm tòi, Tự do phát minh và là cản ngăn sự
phát triển của tri thức. Nhưng nếu Văn hóa tức cái ‘Sống chung cho nhau’ không
đồng nhịp với cái Biết Làm (Văn minh) thì mọi thứ tốt đẹp mà con người và nhân
loại ước mong : Tự do, Nhân quyền, Nhân phẫm, Công bình, Bác ái, Hoà bình, Hạnh
phúc,…không thể nào thực hiện được. Người ta đã nói đến ‘sự độc tài của di thể’
(la dictature des gènes – Axel Kahn), , đến ‘Chế độ kỹ trị’ (régime
technocratique) trong đó, chỉ giai cấp Biết Làm (giai cấp trí thức – classe
savante, knowledge class) nghĩa là lớp người có trình độ khoa học, kỹ thuật cao
cấp, những chuyên viên thượng thặng về mọi lãnh vực, nắm độc quyền an bài xã hội
và quần chúng nhân dân chỉ còn phải tuân thủ. Một chế độ kinh khiếp như hay hơn
mọi chế độ độc tài vì không thể nào chống đối do ‘kỹ thuật vạn năng’ sẽ nhân
danh Văn minh, Tiến bộ, Phát triển hủy diệt vô cùng hiệu quả mọi chống đối, xem
quần chúng là lớp người kém cõi, không có hoặc không theo kịp cái ‘Biết Làm’ của
giới cầm quyền để trở thành trở lực cho Văn minh, Tiến bộ. Tình trạng đó sẽ xảy
ra một khi giai cấp Biết Làm nầy không có hoặc thiếu tinh thần Văn hóa, không
tôn trọng cái ‘Sống chung’ của toàn thể xã hội mà chỉ nghĩ đến cái ‘Sống chung’
của riêng lớp người Biết Làm đó thôi. Chúng ta hẳn thấy chế độ thực dân ngày
nay không cần thiết dựa vào sức mạnh vũ trang mà dựa vào sức mạnh kinh tế ; chủ
nghĩa tư bản không cần bóc lột sức người, sức của của quần chúng một cách độc
ác như trước mà trở thành một thứ ‘chủ nghĩa tư bản quyến rủ’ (6) khai thác, vận
dụng và bóc lột phần Tâm linh con người do cái Biết Làm tạo ra hàng hóa nhiều,
tiên lợi, đẹp mắt, rẻ tiền và luôn luôn đổi mới. Thoạt nghe rất hấp dẫn nhưng
chỉ đưa cuộc sống vào vô nghĩa, bấn loạn vì hoàn toàn phải ví đuổi tiện nghi,
phải bắt kịp thời trang, thời thượng mà lại không đủ khả năng và điệu kiện. Thời
gian sống càng lúc càng hối hả, không gian sống càng lúc càng bức xúc, thần trí
càng lúc càng bấn loạn. Trong tác phẫm ‘Nhân loại mới : từ Nhất Thể khởi nguyên
đến Nhất Thể hồi phục’, người viết chúng tôi đã nhận định về thực trạng xã hội
tiền tiến Tây phương : ‘’Trật tự mà bât an, tự do mà ràng buộc, sung mãn mà
nghèo nàn’’ và ‘’Áp bức không nguyên nhân, khổ đau không chứng cớ, tội ác không
tìm ra thủ phạm’’. Cũng trong tác phẫm nầy, những căn bản làm nền tảng xây dựng
xã hội Tư bản hiện nay là ‘Tự do, Bình đẵng’ trở thành ‘’những thứ mà kẻ yếu
luôn đòi hỏi, biến thành vũ khí của kẻ mạnh để nhân danh và là của cải của những
ai có phương tiện, có điều kiện’’(7).
Nhà
Khoa học (bác sĩ và di truyền học) Albert Jacquard đã phần nào bi quan, nhận thấy
rằng : ‘’Thực sự, chúng ta từ nay đang đối diện với một vũ trụ độc hướng. Và
cái chiều hướng duy nhất đó, chính là chiều hướng của tiền bạc. Giá trị buôn
bán. Vấn đề đặt ra là diều đó liên quan đến cái nhìn của chúng ta về con người,
bỡi vì, thực ra, sự đánh giá con người cuối cùng chỉ căn cứ trên giá trị kinh tế
thôi. Tôi từ Canada về và chúng tôi đã bàn thảo về lớp người trí thức. Lớp trí
thức ngày nay là gì ? Lớp trí thức chẳng khác gì một cá nhân đã đem lại nhiều
tiền bạc cho một hảng xưởng. Không thể chấp nhận được. Phải phản ứng vì cuối
cùng chính phẫm giá con người bị đe dọa ! Rốt cuộc, tất cả chúng ta đều bị xếp
vào hàng ngũ những gái điếm. ! Một kỹ sư ca ngợi tính thông minh của mình không
đáng gíá gì hơn một gái điếm khoe khoan bộ phận kín của cô ta. Dĩ nhiên, cả hai
không cùng một bộ phận nhưng, thật ra cũng cùng một thái độ thôi ! Ðiều đó có
nghĩa biến mọi khả năng của chúng ta thành tiền bạc, một bên bằng cách đưa
mông, một bên sử dụng khối óc. Nhưng cứu cánh, thật ra chỉ là tiền bạc, duy nhất
chỉ là tiền bạc. Và khi cứu cánh chỉ là tiền bạc, chúng ta đã hành xử theo cung
cách của gái điếm’’ (8). Nhận xét phần nào quá đáng nhưng không phải hoàn toàn
sai. Phong trào ‘Toàn cầu hóa Kinh tế’ liệu có nhằm thực hiện được sự thịnh vượng
chung cho toàn thế giới hay chỉ là phương tiện thu tóm kinh tế toàn cầu vào
trong tay một số tổ hợp tư bản tài phiệt ? Sự việc dùng tế bào ADN vào canh
tác, tạo nên những loại ngũ cốc ‘di thực’ (transgéniques) có nhằm giải quyết nạn
đói trên thế giới hay chỉ phục vụ ‘doanh nghiệp thực phẫm’ tư bản ?
Các
nhà Khoa học, Kỹ thuật thường nghĩ đến Tiến bộ, Văn minh, Phát triển về mặt sống
cơ năng và cho rằng những Tiến bộ, Văn minh đó sẽ giải quyết tất cả mọi vấn đề
của cuộc sống, đưa con người đến toàn thiện, toàn mỹ (9) mà quên nghĩ rằng cái
xấu, cái ác cũng do đó mà tiến bộ, văn minh. Một tên cướp dĩ nhiên tiến bộ hơn
một tên cắp vặt ; giết người bằng súng dĩ nhiên tiến bộ, văn minh hơn giết người
bằng dao mác.
Xa
lìa Văn hóa thì cái Biết Làm sẽ dẫn đến một thứ ‘lý thuyết ưu sinh’ (eugénisme)
chủ trương hủy diệt số người bất toàn về cơ thể hay cho rằng không đủ khả năng
tinh thần (kém, chậm, ngu đần,…) để chỉ còn số người ‘ưu việt’ về mặt Biết Làm
nầy như một đôi nhà khoa học qua các lý thuyết của họ như Alexis Carrel, James
Watson (10) . Quan điểm của đôi nhà khoa học đó đã thường được dùng biện minh
cho những thứ chủ nghĩa như Ðức Quốc Xã hay những chủ trương cực đoan khác về
Văn minh (nền Văn minh duy lý của Tây phương), về ý thức hệ (Cộng sản), về Tôn
giáo (như Hồi giáo quá khích). Nhìn chung, dù các nhà Khoa học, Triết học có
giàu từ tâm đến mấy thì thành tựu của họ vẫn đươc sử dụng vào mục đích Tư hữu,
Chiếm hữu dù về của cải vật chất hay của cải tinh thần (tôn giáo).
Qua
những dữ kiện trên, ta thấy rằng cái ‘Biết Làm’ (Văn minh) mà không đi đôi với
cái ‘Biết Sống chung’ (Văn hóa) thì không thực sự phục vụ được con người cùng
cuộc sống của nó và của nhau, cũng không là điều kiện đủ cho Tiến hóa.
Hậu
bán thế kỷ XX và những năm đầu của Thiên niên kỷ III đang đối diện với bước ‘nhảy
vọt’ của cái ‘Biết Làm’ trong lúc cái ‘Biết sống chung’ không theo kịp đà Văn
minh. Bao nhiêu hiểm họa đang giăng bày trước mắt nhân loại : vũ khí hạnh tâm,
vũ khí sinh học, vũ khí internet, nạn khủng bố, nạn bá quyền nước lớn, nạn ô
nhiễm môi sinh, nạn nổ bùng nhân số,…càng lúc càng trầm trọng ; sự chạy theo vận
tốc của kỹ thuật và thời trang, sự ưa chuộng cảm giác mạnh, sự mất giá của gia
đình, của Tôn giáo, đạo đức,…còn bao nhiêu hiểm họa khác. Tuy nhiên, người viết
nghĩ rằng đấy có thể là giai đoạn quá độ của Văn minh để chuyển sang giai đoạn
‘hội nhập Văn minh và Văn hóa’ với một nền Pháp lý và Ðức lý mới làm nền cho tổ
chức Chính trị, Kinh tế hầu thiết lập một ‘trật tự mới’ cho toàn thể địa cầu .
Thế giới hiện nay đang phải trải chịu những ‘đổ vỡ’ trầm trọng suốt mặt, một cuộc‘khủng
hoảng thần trí’ (crise d’esprit theo Paul Valéry) về khắp mọi lĩnh vực do cơn sốt
cao độ của Văn minh nhưng chính đang trong cơn ‘quặn thắt cuối cùng’ để ‘sinh
thành’ trở lại (như trường hợp người thai phụ đau đớn đến cùng cực để sinh hạ đứa
con)., có nghĩa để tạo dựng một nền Văn hóa, Văn minh phổ quát’ mà không loại
trừ mọi sắc thái Văn hóa, Văn minh của từng dân tộc. Văn minh, Văn hóa ngày
nay, không còn tính cách cục bộ, địa phương rời rạc, không còn dời địa bàn từ
vùng nầy sang vùng khác mà tiến đến giai đoạn ‘toàn cầu hóa’. Từ lâu, người ta
đã nói đến nền ‘Văn minh liên lục địa’, ‘Văn minh liên châu’ (civilisation
intercontinentale) hay ‘Văn minh hành tinh (civilisation planétaire) ; điều nầy,
người viết nghĩ, tất yếu sẽ đến do yêu cầu của Tiến hóa.
Người
viết nghĩ rằng không nên nhìn Thiên nhiên thuần theo một quan điểm nào -Vật
linh hay Cơ giới- để Văn hóa không làm ngưng đọng Văn minh, cũng không dể Văn
minh làm phương hại Văn hóa. Nghĩa là phải kết hợp cả hai cái ‘Biết Làm’ và ‘Biết
Sống’ cùng lúc. Như thế phải kết hợp cả hai loại Biết : cái ‘Biết tìm cầu’ và
cái ‘Biết Thể nghiệm’, (11). Nói theo M. Heidegger là hai loại Tư Tưởng : ‘Tư
Tưởng quy hoạch’ (pensée calculante, tức cái Biết Làm) và Tư Tưởng suy niệm’
(pensée méditante, tức cái Biết sống) hầu sao cho ‘Trí tuệ mở vào Huyền nhiệm’
cùng lúc thể hiện được cái ‘Bình đẵng tánh trí trước mọi sự, mọi vật’. (esprit
ouvert au secret et égalité d’âme devant les choses) như lời M. Heidegger trong
thiên cảo luận ‘Sérénité’ (12). Thời điểm ‘Muôn vật đổi mới’, ‘Ta làm mới lại tất
cả’, thời điểm ‘Ðáo bỉ ngạn’ qua lời Jésus và lời Phật Thích Ca có thể xem là
báo biểu cho hành trình đó. Theo đó, thiết nghĩ, theo người viết, nhiệm vụ nhà
trí thức bất cứ thuộc lãnh vực nào cũng nên luôn luôn ‘Văn hóa hóa’ mọi tư duy
và hành động của mình để mọi thứ do cái Biết Làm của mình và của tập thể phục vụ
được cái Biết Sống của toàn thể trong cuộc sống, cuộc đời trên mặt đất nầy.
e)
Có một nền ‘Văn Minh, Văn hóa phổ quát’ (universelle) cho chung nhân loại không
haycó nhiều nền Văn minh, Văn hóa khác nhau ?:
Trước
nay, trên thế giới đã có nhiều nền Văn minh, Văn hóa khác nhau. Sự khác nhau đó
thường cơ sở hoặc về mặt Tôn giáo (Văn minh, Văn hóa Thiên Chúa giáo, Phật
giáo, Hồi giáo,…), hoặc về mặt Triết lý (Văn minh, Văn hóa duy vật, duy tâm,
duy lý,…), hoặc về một phương thức chủ yếu trong sinh hoạt kinh tế (Văn minh,
Văn hóa du mục, nông nghiệp, kỹ nghệ,…), hoặc căn cứ nơi địa bàn sinh hoạt và lịch
sử của từng dân tộc (Văn minh, Văn hóa Tây Âu, Á Ðông, Hy Lạp, La Mã, Ả Rập, Ấn
Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam,…).
Do
những dị biệt về màu da, ngôn ngữ, huyết thống, tín ngưỡng, về địa bàn cư trú
(thiên nhiên, địa lý,..) và quá trình phát triển lịch sử, mỗi dân tộc có một nền
Văn minh, Văn hóa rêng của mình. Do đó, có nhiều nền Văn minh, Văn hóa trên thế
giới mà sự chung đụng nhau có thể dẫn đến những xung đột trầm trọng ; điều mà
S.P. Huntington đã đề cập trong tác phẫm ‘The Clash of Civilisations’ (13). Nền
Văn minh, Văn hóa từng dân tộc cho ta thấy tính lịch sử và tính truyền thống của
dân tộc đó, tức những sắc thái riêng biệt cấu tạo nên tinh thần dân tộc, những
điều được xem là ‘dân tộc tính’, cái ‘căn tính’ của dân tộc.
Tuy
nhiên, ta có thể dự tưởng ‘một nền Văn minh, Văn hóa phổ quát’ chung cho toàn
nhân loại từ những lý do sau :
1)
Tuy có nhiều khác biệt nhưng tất cả mọi dân tộc trên thế giới đều thuộc về một
chủng loại duy nhất, một dạng Tồn Tại duy nhất, đấy là ‘chủng loại người’ cùng
giống nhau về cấu trúc thân xác, cùng có những đòi hỏi giống nhau về măt sinh vật
lý, cùng có những ‘hằng số’ về mặt tinh thần, tâm linh như : chuộng hoà bình,
ghét chiến tranh, tìm hạnh phúc, tránh đau khổ, thích điều thiện, ghét điều ác,
chuộng công bình, bác ái, chống áp bức, bóc lột, bất công, bạo quyền, bạo lực,..Tuy
khuynh hướng cạnh tranh chiếm hữu còn chế ngự xã hội nhân loại gây bao chiến
tranh, ly loạn, áp bức, bóc lột nơi mỗi dân tộc cũng như trên thế giới nhưng tự
thâm tâm mỗi người, nơi đâu cũng hướng về cuộc sống hoà bình, an lạc, thánh thiện,
lương hảo, hạnh phúc cho mình, cho người. Những ‘hằng số’ tốt đẹp đó nơi tự
thân mỗi người và chung cho nhân loại, cho phép ta hình dung một nền Văn minh,
Văn hóa phổ quát cho toàn thế giới.
2)
Hơn nữa, ngày nay, mọi diều kiện tiếp xúc, giao lưu đã đưa các dân tộc gần gũi,
hiểu biết nhau hơn khiến mọi kỳ thị, mọi khác biệt giữa nhau dần dần giảm thiểu
và trình độ văn minh đã được phổ cập khắp toàn cầu. Dù hiện nay, một số quốc
gia, dân tộc chưa đủ điều kiện thụ hưởng mọi điều kiện văn minh do dân trí chưa
mấy phát triển, do bị những thế lực độc tài kềm hãm, do chưa đủ những điều kiện
kinh tế và kỹ thuật và cũng do sự chế ngự của những quốc gia tiên tiến muốn
bành trướng chiếm hữu ngăn chặn sự tiến bộ của các dân tộc khác, nhưng trong
‘xu thế toàn cầu’, tất yếu mọi điều kiện văn minh sẽ trải rộng trên toàn thế giới.
Ðây không do lòng hảo tâm hay thiện chí của một ai mà do thức tĩnh của lương
tri nhân loại, do thế bắt buộc của cơn sốt văn minh cao độ mà những thành tựu về
khám phá không gian, về y học, về truyền thông, về kinh tế, về môi sinh, về nhu
cầu tránh hủy diệt,..sẽ đưa đến. Tóm lại, do diễn biến tiến hóa của nhân sinh.
Ta
thử hình dung chỉ riêng điều kiện vệ sinh không thôi, nay mai toàn thể thế giới
hẳn không còn nơi nào , không còn ai phóng uế bừa bãi bất kỳ nơi đâu mà tất cả
đều biết làm cầu tiêu, cầu tiểu trong nhà và nơi công cộng. Những vật dụng như
nồi cơm điện, tủ lạnh, máy giặt, những radio, truyền hình, những điện thoại cầm
tay, những máy thu hình bỏ túi, những máy điện toán vừa nhỏ vừa công hiệu to lớn,..
nói chung những sản phẫm của khoa ‘vi điện tử’ (micro électronique) vừa nhỏ vừa
rẻ tiền, đem đến 4 tiết kiệm căn bản : tiết kiệm không gian, thời gian, công sức,
tiền bạc , sẽ lan tràn khắp nơi, phần do sự ưa chuộng của mọi người, phần do sức
bành trướng của nền kinh tế thị trường. Do đó, văn minh sẽ phổ cập khắp nơi, dù
chưa biết sáng chế, phát minh thì cũng biết sử dụng.
3)
Chính những tiến bộ thần tốc của nền văn minh duy lý, cơ năng đã gây đổ vỡ tàn
khốc cho nhân loại suốt bao thế kỷ đến nay, đã khiến cho lương tri con người và
nhân loại bừng tĩnh. Thế giới, từ hậu bán thế kỷ XX và trong những năm đầu của
Thiên niên kỷ III, đang tiến hành ‘cuộc phán xét lại lịch sử’ mình. Bao nhiêu tổ
chức nhân đạo, tổ chức bảo vệ quyền người, tổ chức ‘phi chính phủ’, bao nhiêu
tòa án lên án tội phạm chiến tranh, tội phạm diệt chủng, đòi hỏi dân chủ, nhân
quyền, tố cáo độc tài, bạo lực, bạo quyền,...Sự ‘tĩnh thức’ của lương tri đang
mỗi ngày mỗi diễn ra lớn rộng đưa đến khuynh hướng ‘Dân chủ hóa, nhân bản hóa
toàn cầu’. Các bản ‘Tuyên ngôn độc lập’ của Hoa Kỳ, ‘Tuyên ngôn về nhân quyền
và quyền công dân’ của Cách Mạng Pháp và ‘Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền’ của
Liên Hiệp Quốc chẳng nhằm đến tạo cuộc sống chung hòa bình và hạnh phúc cho
toàn nhân loại ?. Dù cho đấy là một lý tưởng xa xôi và qua bao năm rồi chẳng gặt
hái hiệu quả tích cực nhưng tất yếu sẽ đến do tất yếu của lịch sử, của tiến hóa
vì cứu cánh của lịch sử cũng như của mọi hoạt động của con người đều nhằm phục
vụ ‘sự sống’, điều mà ai cũng nhìn nhận và đạo Nho đã nêu thành chân lý :
‘’Thiên địa đại đức viết sinh’’. Ai cũng muốn sống và không gì quí hơn Sự Sống,
nhất là Sự Sống Chung giữa nhau và cho nhau.
Từ
những lý do và sự việc trên, ta có thể nghĩ dến một nền Văn minh, Văn hóa chung
cho toàn thể địa cầu dù đường đi đến đó còn phải trải qua bao máu đổ, lệ rơi.
(14).
Nền
Văn minh, Văn hóa phổ quát đó có xóa bỏ mọi nền Văn minh, Văn hóa khác nhau của
các dân tộc không ? Người viết nghĩ, về Văn minh, mọi nền Văn minh của các dân
tộc có thể bi xóa bỏ vì toàn thế giới sẽ tiến đến trạng thái Văn minh giống
nhau vì Văn minh chỉ có tính cách lịch sử chứ không có tính cách truyền thống.
Ngược lại, Văn hóa có tính cách truyền thống nên dù tiến đến một nền Văn hóa phổ
quát cho toàn thế giới thì những nét đặc thù của từng nền văn hóa dân tộc vẫn tồn
tại, vẫn hiện diện trong nền Văn hóa phổ quát đó Ðấy là trạng thái ‘Chung nhất
nhưng không loại trừ dị biệt’ (l’unité dans la diversité). Chẳng khác gì nơi Phật
giáo, cùng chung thờ Ðức Như Lai, cùng theo giáo lý của Ngài tuy có nhiều tông
phái theo từng lối tu chứng khác nhau mà không hề chống đối, tranh chấp. Cũng
giống như tình trạng Hoa Kỳ, vẫn có một nền Văn hóa chung cho cả nuớc nhưng vẫn
là một quốc gia ‘đa văn hóa’.
Chú
thích:
1)
‘Chaque plante et chaque animal participaient psychiquement au processus vital
de l’âme du monde, intellectuellement à l’activité de son esprit et
matériellemnt à l’organisation de son corps’ – Collingwood, trích dẫn bỡi
Rupert Sheldrake trong ‘The Rebirth of Natura’, bản dịch Pháp ngữ ‘L’Âme de la
Nature’ của Paul Couturiau, édts du Rocher, Paris 1992, trang 57.
2)
: xem ‘L’Âme de la Nature’, sđd, trang 20.
3)
Có lẽ theo đó, chế độ chuyển từ mẫu hệ sang phụ hệ. Canh tác lúc đầu do người nữ
trong lúc săn bắn, chài lưới , chăn nuôi do người nam. Dần dần do nhu cầu sản
xuất và do nhu cầu sinh sản, sức lực người nữ nhường bước cho sức mạnh người
nam.
4)
‘Les droits de l’homme seraient remplacés par le droit des gènes, et, par
conséquent, la liberté d’une personne ne serait plus liée à son humanité, mais
à la singularité de son génome’ – Axel Kahn, xem ‘L’Avenir n’est pas écrit’,
sđd, trang 219.
5)
‘Les organismes vivants héritent non seulement des gènes mais aussi de champs
morphiques. Les gènes sont transmis matériellement par les ancêtres et
permettent de produire
des
types particuliers de molécules protéiques ; les champs morphiques sont hérités
de facon non-matérielle, par résonnance morphique, non seulement avec les
ancêtres mais encore avec tous les membres de son espèce . L’organisme en
développement s’accorde aux champs morphiques de son espèce et puise donc dans
une mémoire collective’ – Rupert Sheldrake, bản tiếng Pháp ‘L’Âme de la
Nature’, sđd, trang 128 – ‘Diện trường cộng hưởng’ hay ‘trường cộng hưởng’
(champ morphique) là trường ứng dụng một tập họp E trong một tập họp F. Cả hai
tập họp E và F đều mang chở nơi mình một kết cấu nội tại. ‘Phản hưởng cộng hưởng’
(résonnance morphique) là biên độ hay độ rộng của những chấn động phản hồi qua
lại với nhau.
6)
Capitalisme de séduction – Thierry Gaudin : ‘’2100, récit du prochain siècle’,
édts Payot,
Paris,
1990
7)
Nguyễn Thùy và Trần Minh Xuân : ‘Nhân loại mới : từ ‘Nhất Thể khởi nguyên đến
Nhất Thể hồi phục’, viết lén lút dưới chế độ Cộng sản, tại Sài-Gòn năm 1979,
nxb Mékong Tỵ nạn, San José, USA, 1992
8)
‘En réalité, nous nous trouvons désormais face à un univers unidimensionnel,
c’est celle de l’argent. La valeur marchande. Ce qui est pour la fièvre
aphteuse l’est pour n’importe quoi : c’est général. Le problème, c’est que cela
s’étend aussi à notre vision des hommes, parce qu’au fond, on finit par évaluer
les êtres humains en fonction de leur valeur économique. Je reviens du Canada
où nous nous interrogions sur les élites. Qu’est-ce qu’une élite aujourd’hui ?
Ce n’est autre qu’un individu qui fera gagner beaucoup d’argent à son
entreprise. C’est insupportable ! Il faut réagir, car, c’est finalement la
dignité que vous évoqueiez qui est menacée ! Au bout du compte, nous sommes
tous ramenés au rang de putain ! Un ingénieur qui loue son intelligence ne vaut
guère mieux qu’une putain qui loue son sexe ! Ce n’est certes pas le même
organe, mais, au fond, c’est la même attitude ! Cela revient à transformer en
argent nos diverses capacités, l’une consistant à montrer ses fesses, l’autre à
utiliser son cerveau. Mais la finalité, il ne faut pas s’y tromper, c’est le
fric, et uniquement le fric. Et quand la finalité n’est que l’argent, nous
adoptons un comportement de putain’ – A. Jacquard : ‘L’Avenir n’est pas écrit’
(tác phẫm đối thoại giữa hai nhà Khoa học : A. Jacquard và A. Kahn với sự tham
dự của nhà báo Fabrice Papillon nêu vấn đề tranh luận. Tuy có đôi điểm khác
nhau giữa hai bên nhưng cả hai đều là những nhà Khoa học giàu tính nhân bản.
Tác phẫm do édts Bayard, 2è tirage, Paris, 2001, trang 61.
9)
Tuy nhiều nhà khoa học luôn đề cập đến thành quả của cái Biết Làm qua những tiến
bộ, văn minh sẽ khiến xã hội nhân loại tốt đẹp hoàn toàn về tất cả mọi mặt như
Michio Kaku trong tác phẫm Visions nhưng người viết không tìm thấy những luận cứ
đáng tin tưởng mấy vì nói nhiều đến khả năng con người hơn là tổ chức ‘cuộc sống
chung’ của xã hội theo cái ‘Biết Sống’. Cả quyển ‘2001, récit du prochain
siècle’ của Thierry Gaudin, tuy phân tích đủ mọi mặt nhưng chưa nêu rõ cách thế
nào hoà hợp ‘con người bên trong’ và ‘con nguời bên ngoài’ để tiến đến ‘xã hội
của trí thông minh’ có thể phục vụ mỹ mãn cái ‘Sống chung’ của toàn thể nhân loại
.10)
Alexis Carrel (1873-1944), bác sĩ ngưuời Pháp, giải Nobel Y học 1912, năm 1935 ấn
hành tác phẫm ‘L’Homme, cet inconnu’, trong đó, ông công khai nêu lên sự loại
trừ, tiêu diệt một số lớp người can phạm và bị bệnh tâm thần trong những phòng
hơi ngạt ; phần nào chủ trương ‘chủng tộc ưu việt’ của Ðức Quốc Xã đã dựa vào
luận điểm nầy – xem ‘L’Avenir n’est pas écrit’, sđd, phần chú thích nơi trang
224. - James Watson, (nhà sinh học Mỹ, giải Nobel 1962 cùng với Francis Crick
và Maurice Wilkins đã tìm ra cấu trúc của DNA năm 1953, trong cuộc Hội thảo về
‘Tính chất trí tuệ (hay sở hữu trí tuệ ?) trong lãnh vực của vật sống’ (la
propriété intellectuelle dans le domaine du vivant) do Viện Hàn lâm Khoa học tổ
chức năm 1995, đã phản bác quan điển ‘Nhân quyền’ của Bác sĩ Axel Kahn, cho rằng
: ‘Tôi nghĩ rằng trong mươi nghìn năm tới, điều được xem là chủ yếu của lịch sử
con Người sẽ không là Jésus Christ, hay Mahomet hay những nhà triết ly hay thần
bí học khác , mà là Charles Darwin…Một hậu quả của Cách mạng của Darwin là nếu
các người quan niệm con Người có những quyền bất khả ly nhượng , điều đó cũng
áp dụng cho con chó, rồi cho con chuột nhắt, cho con men giấm…Vị thần di truyền
và những khoa Sinh-kỹ-thuật-học cống hiến cho chúng ta nhiều khí cụ để ảnh hưởng
vào tiến hóa, và, điều đó cảnh giác một số người,về những khả năng mà lâu nay
thường được xem là độc quyền của những sức mạnh siêu nhiên…Nhưng, sau rốt,
không phải lần đầu tiên, con người tự xem mình là Thượng Ðế…Con người đã thực
hiện điều đó bằng cách thuần dương thú vật, bằng cách phát triển canh nông’.
(..Je pense que dans les dix mille ans qui viendront, celui qui s’imposera
comme la figure dominante de l’histoire de l’Homme ne sera pas Jésus Christ, ou
Mahomet ou d’autres grands philosophes ou mystiques, mais Charles Darwin…Une
conséquence de la révolution darwinienne est que si vous avancez que l’homme a
des droits inalinéables, cela s’appliquera aussi au chien, puis à la petite
souris, à la mouche du vinaigre…Le génie génétique et les biotechnologies nous
ont donné de puissants outils pour influencer l’évolution, et cela en alarme
certains car ces pouvoirs étaient jusqu’alors considérés comme l’apanage des
puissances surnaturelles…Mais, après tout, ce n’est pas la première fois que
l’Homme se prend pour Dieu…Il l’a fait en domestiquant les animaux…,en
développant l’agriculture’ – Trích dẫn bỡi A. Kahn trong tác phẫm ‘Et l’Homme
dans tout cà ?’, , Nil édts, Paris 2004, trang 67. James Watson không nói đến
‘chủng tộc ưu việt’ nhưng tin tưởng thuyết Tiến hóa của Darwin. Thuyết nầy, với
quan điểm ‘tuyển trạch tự nhiên’ (la sélection naturelle) cho rằng một chủng loại
nào đó tồn tại và tiến hóa do có khả nâng ưu việt hơn các chủng loại khhác.
11)
Theo Hoà thượng Thích Viên Lý trong phần giới thiệu (26/06/1992) tác phẫm ‘Vật
Lý Học và Phật Học’ của Gíáo sư Khoa học Vương Thủ Ích, người Ðài Loan - , bản
dịch Việt ngữ của Vân Uyên, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới xuất
bản, California, USA, 1994 trang 8.
.12)
Xem Questions III, Gall, Paris 1989
13)
Samuel P. Huntington : ‘The Clash of Civilizations and the Remaking of World
Order’,, 1996 - Bản dịch Pháp ngữ ‘Le Choc des Civilisations’ của Jean Luc
Fidel, Geneviève, Patrice Jorland và Jean Jacques Pédussaud, édts Odile Jacob,
Paris 1997(
.14)
Nền Văn minh, Văn hóa phổ quát đó được dùng theo số ít trong tiếng Pháp ( la
civilisation, la culture), còn các nền Văn minh, Văn hóa khác nhau được dùng
theo số nhiều (les cvilisations, les cultures) – xem The Clash of
Civilizations, bản tiếng Pháp, sđd, trang 353-357.
No comments:
Post a Comment